Thứ Sáu, 12 tháng 10, 2007

Nhớ mẹ mùa bão lũ

Văn Quốc Thanh


Nửa đời con sông nước Cửu Long

Bầm tím ruột khi nhớ về quê mẹ
Bên dòng phù sa con âm thầm lặng lẽ
Tóc bạc quê người - nhớ lắm mẹ ơi!

Đêm nghe gió từng cơn đổi ngọn
Nhớ vô cùng khúc ruột miền Trung
Mùa mưa lũ mẹ ngồi canh nước lớn
Nơm nớp lo cơn bão chuyễn đường.

Xin giông bão hãy ra biển cả
Thử thách mình trước đại dương xanh
Nơi mẹ ở mỏng manh vách lá
Đừng làm đau như đã vô tình.

Nơi mẹ ở thơm mùi khoai nướng
Đồng ban trưa nắng rám da người
Con trâu đứng nhai mầm cổ tích
Cỏ xanh rì thơm suốt đường đê.

Ở nơi ấy mùa đông trời rét
Chân run run mẹ lội ruộng sâu
Áo không đủ che lòng đẫm ướt
Nhớ thương bầy con đi xa.

Nơi quê mình sông Thu Bồn vẫn chảy
Con nằm đây nghe sóng Cổ Chiên
Thèm mì Quảng ngủ mơ thấy mẹ
Ánh mắt cười khói bếp thơm hơn.

Chúng con qua bảy núi năm rừng
Lòng mắc nợ lời ru của mẹ
Thương rát giọng à ơi đứt đoạn
Bất hạnh đến cùng bão lụt mỗi năm.

một số hình ảnh Trại sáng tác Văn học Tây Ninh













trong một đêm Ponpot đã
thảm sát một gia đình














công viên Mặt Trời













Bạch Dương Thi quán













thành Bảo Long Giang

Thứ Ba, 7 tháng 8, 2007

Cảm nhận bài thơ "Con người và chiếc bóng" của VQT

Cảm nhận của nhà văn
Hồ Tĩnh Tâm

Con người và chiếc bóng
Có những đêm thiếu ánh đèn dầu
Căn phòng chật và bóng đêm dày đặc
Tôi chợt nhớ một ngày vào buổi ban mai
Mặt trời mọc chiếc đầu tôi đổ xuống.
.
Có những đêm dưới ánh đèn dầu
Vùng ánh sáng lẻ loi lạnh ngắt
Tôi chợt nhớ một ngày vào buổi ban trưa
Mặt trời ở đỉnh cao vời vợi
Chiếc đầu tôi lại ở dưới chân mình.
.
Có những đêm thức với đèn dầu
Cơn gió trêu người. Ngọn đèn khuya lắt lẻo
Tôi chợt nhớ một ngày vào buổi hoàng hôn
Mặt trời rơi vào bóng đêm u tịch.
.
Ôi! Thời gian và chiếc bóng con người
Ôi! Mặt trời mãi xoay vần muôn thuở
Thơ và người có là duyên nợ
Ta mãi tìm sao câu chữ vẫn lặng thinh!
Rực rỡ phương Đông, bóng đổ trời Tây
Mặt trời càng cao bóng người càng nhỏ bé.
.
Hôm nay tôi nằm nhà với cơn đau vẫn còn ê ẩm trên ngực, cảm thấy trống trải nên tìm đọc bạn bè cho khuây khỏa, bất ngờ chạm phải “Con người và chiếc bóng” của Văn Quốc Thanh. Vậy là đọc. Đọc xong rồi thì nhìn lướt qua toàn bộ trang blog của anh.Đẹp và nghiêm túc. Cảm nhận ấy khiến tôi phải đọc lại lần nữa bài thơ trên. Bất chợt nhận ra mình quá nhỏ bé. Đúng như Văn Quốc Thanh đã viết: “Mặt trời càng cao bóng người càng nhỏ bé”.Bài thơ không dài lắm, cứ nhắc đi nhắc lại hình ảnh một ngọn đèn dầu hiu hắt. Nó hiu hắt đến mức, nhiều khi không hề có mà ta vẫn cảm thấy nó hiu hắt rưng rưng ở đâu đó, như trong khổ thơ đầu tiên Văn Quốc Thanh đã đề cập. Và cũng bởi ngọn đèn dầu quá hiu hắt, mà suốt ba khổ thơ đầu, bóng đêm như trùm xuống đời ta một nỗi niềm u ẩn.
Từ trong bóng tối bao phủ ấy, Văn Quốc Thanh nhìn thấy ban mai, ban trưa và hoàng hôn, vạch vào không gian quỹ đạo của mặt trời một đường cong tiền định của kiếp người quá đổi vô vi. Đó là chiếc bóng của mình. Chiếc bóng nhỏ nhoi và cô độc, luôn là đà trên mặt đất, luôn quanh quẩn dưới chân người, như là định mệnh của phận kiếp không thể dứt ra được.Mặt trời cứ đi, cứ đi, cứ đi trong dòng thời gian vô tận. Còn chiếc bóng vẫn cứ quanh quẩn vướng vấp dưới chân người, không buông khỏi con người.
Cùng với chiếc bóng của mình, Văn Quốc Thanh nhìn thấy gió, nghe thấy gió, biết là gió trêu người u ẩn với ngọn đèn hiu hắt. “Mặt trời rơi vào bóng đêm u tịch”. Im lặng sóng sượt một vũng tối, nhưng chiếc bóng nhất định vẫn còn, bởi nói như nhà Phật: không ai ra khỏi chiếc bóng của mình.
Tôi dừng lại ở khổ thơ thứ ba của Văn Quốc Thanh. Dừng lại để được chậm hơn trong ngẫm nghĩ về mình.
Đêm hôm qua tôi đã phạm một lỗi lầm vì nông nổi. Trong cơn đau thắt ở vùng ngực, tôi không ngủ được, tôi ngồi đọc lại “Đàn hương hình” của Mạc Ngôn. Những cơn ho dội lên, khiến cơn đau thắt vùng ngực phải càng xúi tôi bực mình. Gập cuốn sách lại ở chương “Đàn tế thần”, tôi ngẫm nghĩ về nỗi đau của Triệu Giáp và Tôn Bính, càng thấy đau cho mình. Mi Nương! Mi Nương ơi! Sao mà đau quá vầy nè! Ổ cứng di động 80 Gb của tôi chứa tới gần 60 Gb đã không còn một tập tin nào. Trống lổng đến căm hận mấy cái mail đã bắn virus vào tôi.
Vậy là tôi phạm sai lầm trong nóng giận. Tôi đã bắn đi một cái mail mà lẽ ra tôi không nên làm như thế.
Sáng nay đọc tiếp chương “Kiệt tác”, mới được mấy trang thì nhức đầu, gập sách lại. Không thể vào Gmail được. Trong Yahoo tôi bị người ta kết tội bởi cái mail si rồ ấy. Cái bóng của tôi ơi! Sao mà khổ vầy nè trời! Từ mở Gmail, bạn bè tôi vẫn thư từ với tôi ở đó. Chẳng biết hôm nay có ai gởi bài cho tôi không? Sao mà khổ vầy nè trời!Khổ thơ cuối của Văn Quốc Thanh nhói lên buốt nhức:
Thơ và người có là duyên nợ
Ta mãi tìm sao câu chữ vẫn lặng thinh!
Bạn của tôi ơi, tôi không thể viết được nữa! Tôi phải đi tìm chiếc bóng của mình, trong vũng tối của nỗi buồn ám ảnh một thời qua.
Tiết xuân đang đến ư?
Nhưng chiếc bóng của tôi lạc ở đâu rồi!..
HTT

Thứ Hai, 4 tháng 6, 2007

Từ Trừơng Sơn cho ta và đọng lại…


Văn Quốc Thanh

Sau nhiều lần trăn trở của ban lãnh đạo Hội, cuối cùng chúng tôi không những có một cuộc hành trình về nguồn tìm hiểu những dấu vết cha anh ghi đậm bằng xương máu gởi lại Trường Sơn mà còn làm một chuyến hành hương xuyên Việt đầy ý nghĩa từ Vĩnh Long đến đất tổ Hùng Vương.
Đoàn gồm 24 thành viên của Hội và 2 “nghệ sĩ đường dài”.
Giờ qui định là 3 giờ sáng ngày 5 tháng 3 năm 2001 xe sẽ khởi hành tại Hội văn nghệ. Lòng tôi bình thản không nôn nao như những chuyến đi xa trước. Sao lại có sự thay đổi lạ thường đến thế, tất cả cảm xúc nguội lạnh rồi chăng? Đến Hội thấy vài anh em trong phân hội nhiếp ảnh ngồi uống cà phê tán gẫu. Thái Hồng từ trên lầu ì ạch xách va-li đi xuống và theo sau Song Hảo cũng rời phòng. Bình Inox đựng nước uống chuẩn bị chuyển lên xe. Ai đó buông câu đùa:“ nước nầy mang theo dành cho nhà thơ S.H. tắm” và anh Bảy Ngộ chen vào:“ tôi xí phần nước tắm ấy để uAống chắc trẻ mãi không già ”. Thế là cả bọn cùng cười. Ồ cũng vui quá chư !
Xe qua cầu Mỹ Thuận, Vĩnh Long còn chìm trong màn đêm chỉ vài người thức sớm tập thể dục chạy bộ trên hành lang cầu và trên xe anh em râm ran trao nhau vài mẩu chuyện.
Bình minh ngày mới bắt đầu. Chúng tôi rong ruổi trên Quốc lộ 13 Dưới ánh nắng ban mai, những mái nhà ngói vách gạch hai bên đường không cột xi măng cốt thép kiên cố như ở miệt đồng bằng Nam bộ. Khi vào địa phận tỉnh Bình Dương thì xuất hiện vài điểm thu phí giao thông và sự việc nầy như lặp lại nhiều lần trên suốt dọc dài đất nước. Một số anh em chưa có điều kiện đi xa cảm thấy khó chịu. Âu đó là lẽ thường tình của thời kinh tế thị trường trong giai đoạn đất nước phát triển, nhưng phải thừa nhận ở phía Bắc người ta làm việc khoa học hơn, tận tâm hơn, nhân viên đến tận xe xé biên lai thu tiền chứ không ngồi một chỗ chờ bác tài đóng cửa xe chạy bức hơi thở tới quầy có khi phải chờ đợi.
Buổi cơm chính thức xa nhà là một quán ven đường ở huyện Đắc Nông nhưng giá khá đắt. Hơn ba mươi phút ăn nghỉ đoàn lại tiếp tục lên đèo xuống dốc, có những đoạn ngoặc hình cong như chữ S rất gắt. Thấp thoáng bóng dáng những thiếu nữ người dân tộc xuất hiện, họ vận khố màu sặc sỡ lầm lủi đi về xóm nhà sàn nằm cập dưới chân núi. Xe càng lúc càng đạt đến độ cao vài anh em cảm thấy ù tai khó chịu. Mùa nầy hoa cà phê nở rộ, lần đầu nhìn thấy màu trắng ấy cô bạn ngồi bên hỏi hoa gì. Tôi cứ ngỡ đó là hoa bông vải. Ngớ ngẩn thật.
Bóng nắng ngã về chiều, đoàn đến khách sạn Ban Mê. Tôi thật sự lo lắng trước cái vẻ sang trọng choáng ngợp nầy bởi hiểu rõ tâm trạng của anh chị trong ban lãnh đạo là chế độ ăn nghỉ rất hạn chế. Nhưng không sao cũng có giá hạng lèn phèn cho những người nghèo như anh em văn nghệ. Thôi tự an ủi với nhau: “ăn nhiều chứ ở có bao nhiêu” nên tất cả dồn hết vào dãy nhà nép khiêm nhường cuối khách sạn.
Người ta thường nói đến Đăk Lăk mà chưa viếng bản Đôn kể như chưa biết Ban Mê. Vậy là mãn nguyện lắm rồi. Chính tôi cũng không ngờ mình lại có mặt tại Tây nguyên để lắng nghe tiếng suối róc rách, tiếng chim rừng gọi nhau ríu rít. Trước cảnh thiên nhiên đầy thi vị, Hồng Cầu đưa máy ảnh nhờ tôi làm phó nháy không biết đẹp xấu thế nào cứ cầm máy bấm đại cho nàng trước đã. Anh em nhiếp ảnh tranh thủ tản ra săn lùng những cảnh đẹp của núi rừng. Vào cầu treo phải mua vé, giá 6.000đ/người. Mới bước chân lên cầu đã thấy thân người cứ đong đưa đong đưa mãi, tôi nghịch ngợm nghiêng hết bên nầy rồi lại nghiêng sang bên khác cho đến khi nào cầu treo lắc lư dữ dội mới thôi làm ai nấy cũng cười bò. Ngọn gió núi thổi lùa, đứng cheo leo giữa con suối trong xanh, Ngọc Phướng sợ đứt dây treo cả nhóm sẽ rơi tõm xuống nước. Các anh nhiếp ảnh thấy vài cô sơn nữ rất tự nhiên ngâm mình kì cọ giữa dòng suối mát, đưa máy ảnh vào tần ngắm. Có lẽ bị phát hiện nên trong chốc lát các nàng tiên nơi sơn dã vội khoát khăn choàng che kín thân.
Tối, về căn tin khách sạn dùng cơm, bữa cơm tương đối ngon miệng. Cái rét vùng cao lạnh thấu xương hay chúng tôi đang mang theo hơi ấm đồng bằng, rất khó ngủ. Ở phòng tôi có anh bạn của Lê Minh Vũ làm ban tuyên giáo tỉnh Dăk Lăk đến chơi và rũ cả phòng đi lai rai, qua chén thù chén tạc, mới biết tình hình Tây nguyên dạo nay không ổn lắm. Kẻ xấu lợi dụng tính hiền lành chất phát của đồng bào dân tộc để xuyên tạc, xúi giục họ manh động, do đó để bảo vệ an ninh tốt thì người nước ngoài và khách du lịch chưa được phép vào. May chúng tôi là dân văn nghệ nên chính quyền sở tại ít quan tâm. Lúc chiều cả đoàn còn dự định ở lại bản Đôn nhóm lửa trại và nghỉ đêm giữa suối rừng nữa chứ ! Ôi cái máu văn nghệ thật hồn nhiên dễ thương hết biết.
Ngày 6-5-2001 đoàn rời Ban Mê. Trên con đường rừng ngoằn ngoèo, hai bên là những tàng thông vương cao trong thời sung mãn, nhìn xuyên sâu vào vùng ánh sáng lờ phía cuối chân đồi một số anh em bị ảo giác đánh lừa thị giác cứ ngỡ đó là mặt nước của một dòng sông thơ mộng hay mặt biển êm đềm. Trong màn sương mai mờ đục ở đồi giao bưu huyện Krông-Pút không còn dấu tích bom đạn, đài tưởng niệm vươn cao sừng sững. Mọi người lặng lẽ cúi đầu chiêm nghiệm trước chiến công của những anh hùng liệt sĩ nằm xuống hiến dâng thân mình cho Tổ quốc. Thời gian quá ngắn mấy bác phó nháy tiếc hùi hụi vì chưa chọn được tầm ngắm vừa ý. Người bận rộn nhất trên xe lúc nầy có lẽ là Trần Hòa Bình, anh đang tìm cách liên hệ với bạn bè ở Pleiku tìm chỗ nghỉ cho đoàn, trên xe có hai chiếc điện thoại di động nên mọi việc nghỉ ngơi của đoàn được anh ổn định bằng cách “điều khiển từ xa”.
Đây là lần thứ hai sau gần tám năm trở lại phố núi, lòng tôi cứ nôn nao đến lạ, muốn tìm thăm bạn cũ. Dưới cái nắng trưa rất gắt chúng tôi đến nhà anh Khắc Quán (cựu chủ tịch Hội Văn nghệ Gia Lai) trên phố Hùng Vương ngồi ôn lại những kỷ niệm thời anh đưa bạn bè văn nghệ Vĩnh Long đến thăm Pleiku (1993). Nhớ đầm Ô Loan, nhớ Chân trời tím, nhớ hương rượu sâm Ngọc Linh, nhớ vị đắng cà phê phố núi ngày nào. Nay phố núi đã thay da đổi thịt. Thủy điện Yali đẹp hơn xưa. Biển Hồ nhộn nhịp hơn nhiều, nhưng với tôi Biển Hồ vẫn nhuộm một vẻ buồn sâu lắng. Đêm phố núi không thấy “em cao nguyên” má đỏ môi hồng mà nghe lòng lành lạnh. Cái lạnh của người thường sáng nắng chiều mưa…
Pleiku ắp đầy tình bạn. Làm sao chúng tôi có thể quên được “một đêm nằm hơn một nằm ở” trong khách sạn sang trọng Thuận Hải đầy đủ tiện nghi, phòng có sẵn Tivi, điện thoại, có cả bồn nước tắm nóng lạnh do ngành công an tỉnh bạn thết đãi. Anh Dương, anh Long tiễn đoàn về xuôi. Nhìn cái vẫy tay tạm biệt mà nghe nao lòng. Thôi tất cả những tình cảm ấy cũng đành nén lại. Phải lên đường. Đây là ngày thứ ba xa nhà. Những ngọn gió ngọt ngào của vùng sông nước đồng bằng Nam bộ thay vào là những ngọn gió núi ắp đầy tình yêu bè bạn cứ mãi theo chân đoàn vượt qua bao đèo cao dốc đứng. Những địa danh lạ lẫm trên Quốc lộ 19, 21 như đèo An Khê, đèo Mâng Yang nâng đôi chân cao thêm và tâm hồn mình như choáng ngợp trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Đứng bên nầy đỉnh đèo nhìn sang bên kia sườn núi thấy những đoàn xe nối đuôi nhau lên dốc như những chú rùa già lặng lẽ lê từng bước nặng nhọc về đích. Dù chưa đến ngày “Quốc tế phụ nữ” nhưng, râm ran trên xe những câu thơ ngẫu hứng về ngày Tám tháng Ba xuất hiện. Anh Hồ Tĩnh Tâm khởi đầu:“Ngày mai mùng tám tháng ba, hôm nay mùng bảy chúng ta lên đèo”. Ai đó tiếp lời : “Lên đèo dừng lại “đá bèo”. Sang ngày mùng chín dẫu nghèo không sao”. Sau khi hiểu thấu cái nghĩa tinh nghịch từ hai chữ “giàu nghèo” của một cậu bé ngây ngô nhìn những người đàn ông tắm biển thì những tiếng cười trên xe như vang dội núi rừng.
Lịch trình đã vạch trước phải đến bảo tàng Quang Trung, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định ngay trong buổi sáng. Chiến công hiển hách của người anh hùng áo vải qua giọng thuyết minh hùng hồn của anh Thông gợi lại niềm tự hào cha ông với tài dụng binh thần tốc, chuyển quân nhanh trên chính đôi vai người lính bởi những chiếc võng thô sơ thay phiên người thức khiêng người ngủ. Bí mật quân sự tuyệt vời, quân xâm lược không tài nào biết được ta âm thầm đóng những chiếc tàu chiến chở hàng trăm hàng ngàn binh lính vận chuyển bằng sức người. Lương thực dự trữ cho trận đánh chỉ là những chiếc bánh tráng-món ăn thuần túy của dân tộc.

Đặt chân đến đất Bình Định tôi chợt nhớ câu ca dao: “Ai ra Bình Định mà coi. Đàn bà cũng biết cầm roi đi quyền”. Vâng, sau khi tham quan bảo tàng thì tiếng nhạc võ bên kia hội trường như thúc giục. Song Hảo, Ngọc Phướng quay ra quày bán vé nhưng giá quá cao phải tốn thêm ba trăm ngàn đồng. Đành tiếc. Nhưng trong lúc thuyết minh, anh Thông biết chúng tôi là những người làm văn nghệ và phát hiện Song Hảo là nhà thơ có nhiều bài được phổ nhạc rộng khắp nên anh thông cảm mời cả đoàn “đường bệ” vào thẳng hội trường xem biểu diễn nhạc võ dân tộc.
Nhạc võ Tây Sơn tập hợp các vũ điệu hoành tráng, bi hùng giàu tính nghệ thuật. Chúng tôi say mê nhìn các chàng trai cô gái vận sắc phục dân tộc uốn lượn lả lướt mang trên mình gươm, đao, khiêng, cung, côn, kiếm của các dân tộc Mèo, Giarai, Êđê, BaNa… qua các vũ điệu điệu Khơgơhátkhinl, Chinđinavas… múa khiêng thể hiện tinh thần thượng võ.
Bác tài vui lây với không khí văn nghệ, cái không khí như vượt ra vòng lẩn quẩn của không gian và thời gian làm cho tâm hồn con người luôn trẻ lại nên lúc ghé trại phong Qui Hòa ở thành phố Qui Nhơn anh rất thông cảm nới lỏng giờ giấc để một số anh em đủ thời gian lội ra ghềnh Ráng viếng mộ thi sĩ Hàn Mặc Tử. Dọc theo bờ biển, nép mình dưới những ngọn dương là dãy tượng bán thân của các bậc vĩ nhân và những câu danh ngôn bất hủ. Lời nói và hành động của họ như vẫn còn đọng lại đâu đây, như đang cùng sóng biển rì rào, cùng tiếng dương vi vu cho đến mãi muôn đời. Ngày xưa, ai vướng vào bệnh hủi chẳng khác nào nhận vào mình bản án tử hình, họ bị chính đồng loại thiếu hiểu biết xa lánh. Tôi dừng lại thật lâu bên chiếc giường Hàn Mặc Tử, đọc lá thư ông tâm sự với mẹ, ông nén nỗi đau dồn vào bốn chữ “đứa con bất hiếu”. Ông tự cô lập mình để ngậm đắng nuốt cay nhả cho đời những áng thơ tuyệt tác. Rồi sau nỗi đau của những người bất hạnh, trại phong Qui Hòa đón nhận biết bao tấm lòng cao cả của những người giàu lòng nhân ái không phân biệt màu da sắc tộc, không phân biệt tôn giáo tín ngưỡng tìm đến. BS Nguyễn Thị Được đưa gia đình đến sinh sống chăm sóc bịnh nhân coi đây như quê hương mình, đặc biệt BS Trần Hữu Ngoạn tự chích vi trùng bệnh vào chính cơ thể để chứng minh bịnh phong chẳng có gì đáng sợ. Ngày nay bệnh phong đã bị đẩy lùi nhưng nỗi ám ảnh của nó vẫn còn đó, những chai nước suối trước mặt anh em trong đoàn tại phòng khách trại vẫn còn nhiều người chưa dám bật nắp.
Chiều nay, chị Song Hảo liên hệ anh Hiếu (chủ tịch Hội Văn Nghệ Quảng Ngãi) đã lo chỗ ăn chỗ nghỉ xong nhưng vì trục trặc kỹ thuật, giờ chót đoàn đến trễ sợ làm phiền bạn nên đành phụ lòng anh. Hẹn lúc quay về.
Nềm vui như đan quyện cùng nỗi buồn. Nỗi buồn của những trái tim nhạy cảm trước nỗi đau của đồng bào ruột thịt khi sáng nay (8/3/2001) chúng tôi đặt chân đến Sơn Mỹ. Ít ai ngờ rằng trong một buổi sáng mà 504 con người ngã xuống trước nòng súng của kẻ thù và bọn tay sai bán nước. Họ gồm những người già, đàn bà, trẻ con. Có em còn nhỏ quá, có em tuổi mới vừa lên bảy mà dám lấy thân mình đổi lấy cái chết để che chở cho đứa em bé bỏng. Có cụ già bị chúng bức râu, nhổ tóc. Có những thiếu phụ mang thai gần ngày vượt cạn bị những tên lính ngoại xâm lòng người dạ thú lôi ra hãm hiếp rồi chĩa súng bắn bỏ. Cô Anh Thư đứng thuyết minh cũng không cầm nổi nước mắt, kéo theo những đôi mắt đỏ hoe nhòe lệ của nhiều anh em trong đoàn nhỏ xuống. Hơn bốn năm làm thuyết minh mà khi gợi lại cảnh đau thương tan tác của đồng bào Sơn Mỹ cô phải nghẹn lại, nhiều lần cô xin lỗi bởi những tiếng nấc làm gián đoạn, nhưng cô nào có lỗi gì đâu. Cái lỗi chung của chúng ta là chưa làm lành những vết thương của những người trong cuộc. Có những đứa trẻ may mắn thoát chết-là nhân chứng sống hiếm hoi trong khi địa phương còn khó khăn không giữ được để bây giờ họ đang sống tha phương cầu thực đâu đó trong thành phố.
Ngày bọn mày râu chờ đợi nhất là ngày Tám tháng Ba. Anh Trần Hòa Bình và anh Hà Ngọc Ngộ bí mật gom anh em kẻ ít người nhiều để làm một cái gì đó thật bất ngờ dành cho mấy chị. Biết tìm đâu ra một bó hoa giữa chốn xa lạ, tôi đem chuyện nầy tâm sự với anh chủ quán gần khách sạn và được anh hồ hởi tình nguyện chở ra chợ Quảng Ngãi mua bó hoa tươi và ít quà mang lên xe. Các chị cười tủm tỉm:“Ôi đàn ông các người hôm nay sao mà dễ thương vậy”. Buổi lễ dự định sẽ tấp vào một quán ven đường nào đó nhưng anh em nôn nao quá, bèn hội ý chớp nhoáng là tổ chức ngay tại chỗ ngồi. Thế là trên xe sẵn có micro, ampli. Tôi dõng dạc tuyên bố khai mạc lễ Tám tháng Ba, Trần Hòa Bình thay mặt cánh “mày râu”, nhà thơ Song Hảo đại diện phái đẹp nhận hoa, quà và đón nhận cái quàng tay“xúi giục” thắm thiết của bè bạn và theo sau là những tiết mục văn nghệ ca ngợi “công lao” phái đẹp kéo dài cả hàng chục cây số. Có lẽ anh em trong đoàn và cũng có thể chưa nơi nào có một ngày lễ “Quốc tế phụ nữ” lãng mạn như thế. Không khí ngày tám tháng ba đuổi theo đoàn về tận Đà Nẵng và phái đẹp nhà ta lần nữa được khách sạn Thanh Bình ưu ái tặng một làn hoa đẹp.
Đứng trên nóc sân thượng khách sạn Thanh Bình nhìn về phía đông- bán đảo Sơn Trà, chỉ cần ngồi xe mươi phút là đến Ngũ Hành Sơn. Năm ngọn núi đã dệt cho đời bao nhiêu huyền thoại, ngoài những giá trị tinh thần nó còn là chỗ tựa giúp quân dân ta gầy dựng cơ sở bí mật trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và ngày nay góp phần tích cực giải quyết kinh tế địa phương. Tiếng đục đẽo dậy lên, bằng đội tay tài hoa của các nghệ nhân buộc đá phải có hồn, đá như biết nói. Những chú sư tử, chim muông, đền đài và những nàng tiên khỏa thân từ đá bước ra làm khách thập phương ngất ngây sửng sốt. Rời núi Ngũ Hành, xe như nặng thêm bởi nhiều kỷ vật.
Ngược hành trình chúng tôi đi về Hội An. Phố cổ Hội An không rộng (4 phường,7 xã), hai bên đường phố là những ngôi nhà trệt, chen lẫn những nhà tầng mái ngói nhuộm vẻ rêu phong. Khách được nhân viên du lịch hướng dẫn thăm chùa Ông, Chùa cầu, Hội quán người Hoa, nghề truyền thống mộc-gốm, giếng cổ hình vuông, cổ vật…
Hàng tháng hễ vào đêm mười bốn âm lịch, cứ đến mười tám giờ, tất cả hệ thống đèn điện bị cúp, thay vào đó là những chiếc đèn lồng, những cây nến đủ kích cỡ. Nhà nhà lên đèn, quán xá lên đèn, những chiếc đèn lồng đầy màu sắc sặc sỡ. Khách nước ngoài cảm thấy lạ lẫm trước những loại hình nghệ thuật dân tộc độc đáo của người Việt Nam như hát bội, hát hò khoan, rao bài chòi, đấu võ, đánh cờ người… Hơn hai mươi giờ dân chúng tụ tập rất đông dọc theo bờ sông để thưởng thức đêm hội họa đăng. Những chiếc lồng đèn hình chậu gọn gàng xinh xắn được thả xuống sông trôi dập dềnh trên sóng nước trong không khí thanh bình vui nhộn. Dưới sông đèn hoa rực rỡ, trên trời con trăng mười bốn sáng ngời vành vạnh. Ôi quê hương mình đẹp quá!
Giã từ Đà Nẵng (9/3/2001), chúng tôi băng đèo Hải Vân, xe lên lưng chừng sườn núi, qua nàn sương mờ trộn lẫn cơn mưa rừng lất phất, một chiếc xe bồn lật ngang nằm chắn lối. Gặp nạn rồi ! Gần hai giờ đồng hồ mới lên đến đỉnh. Bác tài tạm cho xe nghỉ. Anh em mỹ thuật tranh thủ chọn góc ngồi cầm cọ. Các chàng phó nháy bất lực trước nàn sương mù dày đặc, nhưng với nhiều kinh nghiệm không chịu bó tay, bằng mọi cách phải khắc phục thời tiết để ngày về có những tấm ảnh đẹp đèo Hải Vân khoe với bạn bè. Mấy chị chẳng hứng thú xuống xe dạo chơi trong cái rét như đồng lõa cùng cơn mưa rừng ngấm vào da thịt giữa đèo cao heo hút.
Huế vẫn mộng mơ trầm mặc như ngày nào, cũng đền đài lăng tẩm và ắp đầy tình bè bạn. Anh Võ Quê đến tận khách sạn Khải Hoàn mời chúng tôi xuống đò, tách bến Ngự Bình thưởng ngoạn đêm ca nhạc trên sông Hương. Nghệ sĩ là những người địa phương thuộc thành phần ưu tú quốc gia như NSUT, Khánh Vân, Minh Nguyệt… những câu hò, điệu lý hòa cùng nhạc cụ cổ truyền dân tộc đi vào lòng người. Đêm Huế sụt sùi mưa. Chúng tôi chợt nhớ câu nói của anh Võ Quê :“ những ngày hè ở Huế nếu có một cơn mưa nhỏ thì chúng ta thưởng thức không khí của mùa đông”. Vâng, dù xuân nhưng đông đang về với Huế. Đêm nay trời Huế se lạnh, cái lạnh len nhẹ vào lòng mỏng tênh, da diếc. Tôi tách ra khỏi đoàn đi lang thang một mình trên các đường phố vắng để hít thở thật sâu bầu không khí cố đô và nghe đâu đó vọng về những khúc tình ca họ Trịnh.
Hơn mười giờ đêm, nhà thơ Nguyễn Duy hay tin anh em văn nghệ Vĩnh Long đang có mặt tại Huế, anh đến thăm thì bị Song Hảo“bắt cóc” làm hướng dẫn viên cho đoàn. Anh đưa chúng tôi thăm cổ thành Quảng Trị, thăm nghĩa trang liệt sĩ đường 9-nghĩa trang đẹp nhất nước (cả nước có 4 nghĩa trang liệt sĩ quốc gia thì Quảng Trị chiếm 2). Anh nói vui: “Quảng trị tiềm lực là nghĩa trang và thế mạnh là mồ mả”. Dọc theo đường 9, chúng tôi dừng lại lối rẽ vào đường mòn Hồ Chí Minh ướm những bước chân đầu tiên trên cầu treo Đăc-Krông. Khi đến dốc Đầu Mầu, anh Duy cho chúng tôi biết vào những năm cuối thập niên 60, anh cùng đồng đội đóng quân cầm súng trực diện với quân thù và có những trận đánh lẫy lừng giữa ta và địch. Chiếc xe tăng của giặc Mỹ được dân đặt trên bệ xi-măng bên vệ đường là bằng chứng thất bại nhục nhã của bọn xâm lược. Lúc nầy không khí trên xe như vui nhộn hẳn lên, anh em nằng nặc đòi bác tài chạy thẳng về Lao Bảo. Đến cửa biên giới Việt-Lào nhằm lúc nước bạn chuẩn bị đại hội Đảng nên không sang thăm đất bạn kể cũng tiếc. Đoàn đành quay về Khe Sanh rồi nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, nhưng sau khi vượt qua hàng chục ki lô mét chỉ còn 4 cây số nữa thì đường bị nghẽn (do đang thi công) đành quay lại nghĩa trang đường 9 lần nữa. Trời tối như hủ nút. Chúng tôi dò dẫm từng bước lên những bậc tam cấp trên đồi cao tìm bác bảo vệ trình bày ngyuện vọng sinh hoạt lửa trại. Rồi hàng chục bó củi chất lên, từng ca dầu chế vào, ngọn lửa xé bóng tối cháy rừng rực, những tiếng đàn, những bài hát, bài thơ về người lính được cất lên ngay bên những nấm mộ. Một số đơn vị bộ đội đóng quân gần đó thấy giữa nghĩa trang thường đêm vắng lặng nhưng hôm nay bỗng rộn lên những con người xa lạ về vây quanh ngọn lửa chập chùng say sưa ca ngợi chiến công của những người vì Tổ quôc nằm xuống, các anh muốn tham gia cùng chúng tôi nhưng trời đã quá khuya. Khi vào ghi sổ lưu bút viếng nghĩa trang, đồng chí trực ban nói với chúng tôi họ chưa bao giờ thấy bầu không khí tưởng niệm dành cho ngừơi chết thiêng liêng, chu đáo và đầy ý nghĩa như vậy.
Rong ruổi trên quốc lộ 1A chúng tôi dừng lại Quảng Bình, một số anh em vào làng Giao Thủy, huyện Hương Thủy tìm hiểu trung đội 37 nữ pháo binh nổi tiếng trong thời chống Mỹ, và bao địa danh thắng cảnh như động Phong Nha, những chiếc cầu gắn liền với bề dày lịch sử như cầu Hàm Rồng, cầu Bến Hải-sông Gianh, bao đền đài như đền thờ An Dương Vương ở Hà Tĩnh, đền thờ bà Triệu, đền thờ đình Gia Miêu …
Đến Ninh Bình không thể không vào thăm đền thành Hoa Lư.
Hơn hai ngàn năm đã trôi qua, bất cứ người dân việt Nam nào cũng biết An Dương Vương xây Cổ Loa thành, chuyện nỏ thần Mỵ Châu-Trọng Thủy. Thành Cổ Loa có tuổi đời vào loại xưa nhất trong các thành trì trên thế giới (hơn 2.000 năm)và đã ba lần kinh đô của nước Việt: lần thứ nhất vào thời An Dương Vương, lần thứ hai vào thời Ngô Quyền và hiện nay là một phần của thủ đô Hà Nội. Xét về thời gian có ba Cổ Loa: Cổ Loa trước An Dương Vương, CL thời ADV và Cl sau ADV. Xét về tính chất cũng có ba Cổ Loa : Cổ Loa kinh thành, Cl quân thành và CL thị thành. Hiện tại Cổ Loa là nơi hội tụ đầy đủ khá nhiều loại hình di tích: đền, đình, chùa, miếu, phủ, am, lăng tẩm, thành quách và rất nhiều di chỉ khảo cổ dưới mặt đất. Dù di tích còn lại không nhiều nhưng Cổ Loa vẫn là điểm thu hút khách hành hương..Vẫn còn đó giếng Trọng Thủy, tượng Mỹ Châu cụt đầu, những mũi tên đồng, bia đá, tượng thờ đủ để chúng ta hình dung đã có một kinh thành trong những trang sử bi hùng đầy chiến công, máu và nước mắt của cả dân tộc. Tuy nhiên nếu địa phương ổn định trật tự tốt trước đám người bám theo khách xin ăn thì hay biết mấy.
Người nghệ sĩ nghèo vật chất nhưng giàu tình cảm, đi đến đâu có bạn bè đến đó. Anh Duy liên hệ với hội Văn Nghệ Thanh Hóa. Nhà văn Kiều Vượng phụ trách văn học bắc miền Trung tiếp đón nồng nhiệt, lo cơm nước, anh đưa chúng tôi về nhà khách ủy ban tỉnh nghỉ (đêm12/3/2001) rồi sáng hôm sau bùi ngùi tiễn anh em lên đường.
Đúng ra chúng tôi đến Vinh là hết lộ trình, nhưng chị Song Hảo thấy đã vượt qua hàng ngàn cây số chỉ còn ít nữa là tới thủ đô của đất nước. Chị nghĩ rằng mình thường đến đây hội họp nhiều lần nhưng hơn ¾ anh em chưa biết trái tim của Tổ quốc. Thôi chị liều đưa anh em đi một chuyến cho biết, dẫu có gì xảy ra bị quở trách tính sau. Chị hỏi: “Ai đồng ý đóng thêm tiền đi Hà Nội” thì tất cả những cánh tay đồng loạt đưa lên, mặc dầu có vài bạn chẳng xa lạ gì với thủ đô nhưng không lẽ ích kỷ không nung thêm niềm khao khát cháy bỏng của anh em sao. Tôi cũng như họ đưa tay ủng hộ.
Sau chín ngày rong ruổi chúng tôi mới chính thức đặt chân đến đất Thăng Long (chiều 13/3/2001). Hà Nội không mưa nhưng rét kinh khủng, vừa vào khách sạn nhận phòng, anh Hữu Ai thấy tấm chăng dày cả tấc phủ trên mặt nệm trắng anh chợt rùng mình tỏ ra ngán ngẩm với cái lạnh ở phía Bắc.
Sáng nay, (14/3/2001) đoàn và hàng trăm người trong và ngoài nước đủ mọi quốc tịch ăn bận chỉnh tề xếp hàng vào lăng viếng Bác. Sau khi đi vòng quanh nhà sàn, chúng ta mới thấy hết cuộc đời bình dị đến khó tin của một vị anh hùng lãnh tụ lẫy lừng đưa dân tộc đến bến bờ tự do độc lập, vinh quang Tổ quốc mà nơi nghỉ ngơi ăn ở của Người quá ư đạm bạc. Vào bảo tàng Hồ Chí Minh chúng ta càng thấy nơi đây như lưu giữ tất cả mọi di sản của cả dân tộc từ thời ban sơ cho đến ngày cận đại.
Buổi trưa, chúng tôi được anh Hữu Thỉnh thay mặt Hội nhà văn Việt Nam tiếp chu đáo tại khách sạn Sông Hương nằm trên phố Bà Triệu. Dù đến Vĩnh Long rất ít nhưng anh vẫn nhớ những kỷ niệm nhỏ nhất của mỗi thành viên đã gặp. Anh hồ hởi báo tin trên số báo văn nghệ mới ra sáng nay có đăng bài của Trần Thôi, Hồ Tĩnh Tâm. Trong buổi tiệc, tình cờ anh gặp Hồng Cầu (con gái nhà thơ Nguyễn Bính) sau khi nghe chị tỏ bày sẽ chuẩn bị cho người cha quá cố một đầu sách 2000 trang, anh hào phóng hứa sẽ tặng năm triệu. Anh “buộc” đoàn phải đi về đất tổ Phú Thọ viếng đền Hùng. Tranh thủ thời gian còn lại trong ngày, ngay trong chiều chúng tôi về Hà Tây viếng chùa phương Tây nơi nổi tiếng có thờ mười tám vị La Hán trên ngọn núi thiêng.
Như lời hứa của anh Hữu Thỉnh, mới mờ sáng (15/3/2001) anh cho xe của Hội nhà văn đến đón chúng tôi tại khách sạn 23 Lê Thánh Tông về Phú Thọ viếng đền Hùng.
Ngày nay quần thể di tích đền Hùng nằm trên các tầng cao thấp của ngọn núi thiêng thuộc xã Huy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Dưới cái nhìn của cư dân địa phương vùng đất tổ, núi Hùng giống như một cái đầu rồng hướng về phía nam, mình rồng uốn khúc thành núi Vặn, núi Trọc; ba đỉnh: Hùng, Vặn, Trọc tạo thành “Tam sơn cấm địa”. Núi Hùng có đền thờ vua Hùng, núi Trọc có di tích Cối Xay, núi Vặn có di tích “cột mốc quốc gia”. Từ chân núi đi lên là cổng đền. Kiến trúc nầy không cổ, được xây dựng vào năm 1917, nhưng thanh thoát xứng hợp với cảnh quan. Hai trụ cổng là đôi câu đối tóm gọn được cái chung nhất của ý nghĩa lịch sử và cảnh trí vùng núi thiêng đất tổ.
Ngôi đền gặp đầu tiên là đền Hạ, được dựng hồi thế kỷ 17. Tương truyền đây là nơi Lạc Long Quân đưa Âu Cơ từ Lăng Xương về ở. Đền Hạ là nơi Âu Cơ trở dạ sinh ra 100 trứng, sau nở ra 100 người con: 50 con theo cha về xuôi, 49 người con theo mẹ lên miền ngược và người con cả nối ngôi vua cha, truyền ngôi 18 đời. Bên cạnh đền Hạ là chùa Thiền Quang, xây dựng từ thời Lê.
Đền Trung là nơi thờ tự chính của các vua Hùng. Đền gọi là “Hùng Vương tổ miếu” được xây dựng sớm nhất trên núi Hùng từ đời Trần(thế kỷ 14). Đền từng bị giặc Minh triệt phá. Sau khi cuộc kháng Minh thắng lợi, triều Lê cho xây dựng lại đền, lệnh cho dân làng lo việc phụng sự tổ quốc. Theo truyền thuyết, đền Trung là nơi diễn ra cuộc thi lễ vật dùng trong đại lễ cúng tế tổ tiên. Lang Liêu đã chế tác bánh chưng vuông và bánh dày.
Đền Thượng là điện thờ trời trên đỉnh núi. Theo truyền thuyết đền Thượng là sân để cúng thần Mặt trời, thần Lúa và sau đó là Thiên Vương Phù Đổng. Trụ đá thề là do Thục Phán dựng lên để tuyên thệ đời đời bảo vệ giang sơn của vua Hùng và gìn giữ việc hương khói tại lăng miếu vua Hùng. Bên trái phía trước đền Thượng là lăng mộ vua Hùng Vương thứ 6.
Đền Giếng là kiến trúc có từ thế kỷ 17. Giếng là bờ đá xây để ngăn, chứa dòng nước ngầm từ núi chảy ra, tạo thành một cái giếng khơi. Tục truyền Ngọc Hoa và Tiên Dung-con gái của vua Hùng thường đến đây soi mặt, chải tóc… Ngọc Hoa là vợ của Sơn Tinh còn Tiên Dung thì giong thuyền theo sông Hồng ra miền duyên hải kết duyên với Chử Đồng Tử. Đền Giếng là nơi thờ tự hai mỵ nương nầy.
Đi từ đền Hạ lên đền Trung, đến đền Thượng rồi đảo vòng xuống đền Giếng là một chuyến hành hương về nguồn cội vào buổi bình minh đất nước. Nơi nào cũng là một địa điểm thiêng và toàn bộ tạo thành khu thánh địa đầy ắp những ký ức kỳ vĩ của thời dựng nước, trường tồn theo năm tháng với những tinh tiết đời sau tích hợp vào làm cho cái cổ xưa có được cuộc sống mới theo đà tiến hóa trong lịch sử mở nước và dựng nước.
Người hướng dẫn tham quan đền Hùng sáng nay là anh Nhựt-chánh văn phòng Hội Văn Nghệ Phú Thọ, dù mới gặp nhau lần đầu nhưng máu văn nghệ trong người làm chúng tôi như thể thân quen tự bao giờ. Anh đưa chúng tôi về Hội để giao lưu trao đổi kinh nghiệm. Tiếp đoàn có anh Đỗ Hữu Dũng-chủ tịch, Trịnh Hoài Đức-PCT kiêm TBT, Kim Dũng-thư ky, nhà văn Hữu Nhàn, nhà thơ Ngô Kim Đỉnh. Qua báo cáo chúng tôi vui lây trước số lượng phát hành đều đều mỗi tháng từ 1.300 đến1.500 số với số lượng bài vở dồi dào và cộng tác viên trên khắp mọi miền đất nước và chế độ nhuận bút kịp thời, hợp lý.
Đêm cuối chia tay Hà Nội chúng tôi đi từng nhóm dạo quanh Hồ Hoàn Kiếm, nhìn những đôi tình nhân ngồi lặng lờ bên bờ hồ bỗng dưng tôi chợt thèm một cái nắm tay vu vơ bè bạn. Nhớ rượu Sơn Đông, nhớ công viên trên một nhánh sông Tiền, nhớ quán cóc cà phê bên dốc cầu Mỹ Thuận… Túi tiền mang theo dần cạn tôi do dự hoài trước cái quán rượu sang trọng bên kia đường. Tại sao mình không say… một bữa?
Trên đường xuôi về Nam, chúng tôi ghé làng Trù, làng Sen thăm quê nội, ngoại Bác. Và còn bao điểm chúng tôi đã dừng chân như thánh địa Mỹ Sơn, biển Cà Ná, trường Dục Thanh… nhưng điều đọng lại trong tôi nhiều nhất là cảnh tàn sát ở Sơn Mỹ và hình ảnh 10 cô gái ở ngã ba Đồng Lộc.
Ngã ba Đồng Lộc, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh là một cái ngã ba bình dị như mọi ngã rẽ mà bất cứ người Việt Nam nào cũng có thể gặp đâu đó trên ba miền đất nước. Nhưng trong thời chống Mỹ, nơi đây là mạch máu giao thông nối hai đầu Nam-Bắc dù mưa bom, bão đạn cũng không bao giờ nghẽn lối. Nơi trận địa pháo cao xạ bủa vây mảnh lưới diệt giặc trời. Nó đã góp phần quan trọng với vận mệnh của dân tộc, là lò tôi luyện bao trái tim gan góc của mọi tầng lớp thanh niên, không phân biệt thành phần nam nữ. Nó được ví như một cái túi khổng lồ chứa bom đạn và máu của đồng bào chiến sĩ ngã xuống. Khi cô thuyết minh bật công-tắc bên góc tường nhà bảo tàng thì mô hình Ngã Ba Đồng Lộc hiện ra. Trước mặt chúng tôi là núi Mòi, núi Trò Voi, núi Mãi, đồi La Thị Tám, sông Vách, đường 15… và chi chít hố bom mấy ai đếm hết. Thế mà trong chiến tranh dưới làn lửa đạn tiểu đội cảm tử A4 do Võ Thị Tần chỉ huy họ không hề bỏ sót-dù một trái. Trong sổ của chị La Thị Tám con số bom riêng chị đém đến hơn 500 qủa.
Vừa mới đặt chân đến nghĩa trang, tôi cùng anh em trong đoàn đã đốt nén nhang trên mộ mười cô gái ngã ba Đồng Lộc, nhưng sau khi xem qua những kỷ vật giản dị mộc mạc của các cô còn lưu lại trong nhà truyền thống, thư từ, quần áo, cuốc xẻng… tôi không cưỡng được mình, nên âm thầm quay trở lại ngọn đồi nơi mười cô yên nghỉ để cắm nhang lần nữa và nguyện cầu cho đất nước mãi mãi thanh bình, cho mọi người sống cao đẹp hơn, cho mình sống có ý nghĩa hơn. Tôi tự trách mình là người thường quan tâm đến phái yếu, nhưng sáng nay (17/3/2001) vào viếng mộ mà trên tay không một bó hoa dù một cánh hoa rừng hoang dại. Tôi muốn tìm sự yên lặng thầm thì cùng các cô hay ra đây để giấu những giọt nước mắt mềm yếu của người đàn ông ngưỡng mộ trước vong linh của những cô gái đồng trinh, anh hùng, hiên ngang đương đầu với bom đạn giặc thù? Dẫu biết rằng nhang khói là hình thức bên ngoài, nhưng không hiểu sao tôi vẫn đốt nhang khấn nguyện…
Đêm nay, ngồi vào bàn cầm bút sau khi gọi điện cho bạn bè cùng xem lại cuồng phim Ngã Ba Đồng Lộc chiếu trên truyền hình. Những cô gái của tiểu đội cảm tử A4 được tái hiện qua các vai diễn điện ảnh, dù đạo diễn thương cảm “gán” thêm cho Trần Thị Rạng một người yêu cùng nụ hôn cháy bỏng với chàng trai lái xe bên máy ủi, nhưng tôi vẫn còn thấy thiếu thiếu một cái gì đó rất gần và rất thật với tình yêu đôi lứa. Còn đâu những hình ảnh thật của những cô gái hồn nhiên tràn đầy sức sống bên miệng hố bom sâu hoắm, bên những đoạn đường bom cày đạn xới, Còn đâu cái không khí lao động hối hả của những chàng trai kéo pháo cao xạ vào trận địa, còn đâu những giọt mồ hôi ướt đẫm của những cô gái thanh niên xung phong khi cắm sâu nhát cuốc vào lòng đất mà trên môi rộn lên những tiếng reo hò trong trẻo đến lạ kỳ. Các cô hồn nhiên đến không ngờ trong vài giây nữa sẽ ra đi vĩnh viễn. Quả bom tấn của giặc Mỹ ném lúc 2 giờ chiều ngày 24/7/1968 đến với các cô gái cảm tử tiểu đội A4 sao man rợ quá !
Hơn ba mươi năm, ngần ấy thời gian đủ có thể đẩy lùi mọi thứ vào dĩ vãng và cuộc sống hòa bình đã xóa hẳn bộ mặt gớm ghiếc của chiến tranh. Giờ đây tiếng gầm rít của bom đạn không ngớt ngày nào, dường như đã ẩn sâu vào câm lặng. Trên ngọn đồi thông xanh kia, kề bên miệng hố bom là 10 nấm mộ của 10 cô gái trẻ thanh khiết. Bên áng hương thờ là bồn dành cắm hoa tươi luôn có mười cành hoa rực rỡ tượng trưng cho 10 cô gái thanh niên xung phong nằm xuống ở tuổi mười tám, đôi mươi. Ngày ngày người ta đến đặt lên bia mộ phấn, son, gương, lược... Đây là quà tặng tâm linh hay đó là sự đổi chác đời thường phía sau lời cầu khấn của ai đó mà tôi từng gặp trong cuộc sống? Chỉ có các cô mới hiểu hết lòng thành của họ và chỉ có cuộc sống lao động, chiến đấu của các cô ngày nào mới là tấm gương sáng ngời để họ soi thấu lòng thiện ác.
Mai nầy chắc trên trang bản thảo bạn bè tôi có thêm những tấm ảnh đẹp, những bức họa có hồn, những truyện-ký hay, những bài thơ sâu lắng và những bản nhạc lay động lòng người. Tôi tin rằng chuyến hành hương về nguồn “Trường Sơn-đất Tổ” lần nầy là một chuyến thâm nhập thực tế cần thiết và mang nhiều ý nghĩa nhất trong mọi chuyến đi.

Chuyến hành hương về nguồn Trường Sơn-đất Tổ
Vĩnh Long tháng 4 năm 2001
VQT

Thứ Sáu, 30 tháng 3, 2007

Khúc ru

thơ
Văn Quốc Thanh

Khúc ru 1

Qua rồi buồn giận với em
Bây giờ trống vắng bên thềm chiều hoang
Với tay vớt sợi nắng vàng
Về không buộc nổi trái ngang cuộc tình.


Khúc ru 2

Ngậm ngùi ru với hồn tôi
Trái tim phiền muộn ngủ rồi em ơi!
Lang thang gần cuối cuộc đời
Nghêu ngao tôi hát à…. ơi một mình.
20/03/07

Khúc ru 3

Ừ thì ta vẫn làm thơ
Cũng vài câu chữ vu vơ với đời
Vui buồn viết để dành chơi
Ngày mai giã biệt ru hời cỏ cây.

Khúc ru 4

Nhiều đêm lạnh nghe mưa rơi trên lá
Ta bơ vơ từ chồi với kiếp người
Hồn cô độc tấm thân tàn ma dại
Giọt mưa khuya hay lệ rớt âm thầm?

Thứ Tư, 21 tháng 3, 2007

Đọc thơ từ tuyển tập “Văn, thơ, nhạc Vĩnh Long 20 năm”

Văn Quốc Thanh

Thật là quá muộn bây giờ tôi mới đặt bút ghi lại cảm nhận của minh từ những dòng thơ từ tuyển tập “Văn thơ nhạc Vĩnh long 20 năm” trong khi tập sách đã ra khá lâu rồi.
Lật qua các trang thơ, tôi tự hỏi không lẽ hai muoi năm mà thơ Vĩnh Long được chọn lọc từng này ư?
Hỏi ra mới biết đây là phần góp nhặt rất nhỏ trong kho tàng vô tận của những người làm thơ viết về Vĩnh Long. Bởi vì kinh phí hạn hẹp nên Sở Văn hóa Thông tin và Hội Văn học Nghệ thuật Vĩnh Long không thể đáp ứng lòng mong mỏi của tác giả cũng như những người yêu thích thơ.
Đọc qua 89 bài thơ của 57 tác giả, tôi không thể trích ra hết. Mỗi tác gỉa thể hiện niềm vui nỗi buồn qua nhiều cái nhìn tinh tế, sâu sắc, có lúc trào phúng, có lúc lạnh lùng dửng dưng khô khốc.
Với giọng thơ trào phúng Việt Chung ghi lại “Đêm hát cúng đình”:
Ông Hương Cả ngồi cầm chầu nhịp trống
Tiếng kèn la, tiếng trống gõ lung tung
Một triều đình đầy vàng son lộng lẫy
Đứng vây quanh kẻ nịnh với anh hùng.
Mới đọc qua tôi cứ ngờ ngợ làm gì có cái kèn la, chỉ có một dụng cụ mang tên phèn la thường dùng vào những buổi dạo đầu, đánh lên để báo hiệu trong xóm làng có người chết rất phổ biến ở miến Trung, nhưng khi đọc hết câu thơ tôi mới thấu hiểu hết ý nghĩa của tiếng “kèn la” rất đơn điệu ở hợp xướng trống “gõ lung tung” của đêm hát cúng đình mà người “hùng” cầm chầu được vây quanh bởi bọn nịnh bợ, lũ sâu dân mọt nước.
Và Hồ tĩnh Tâm thường ngày vui nhộn, tiếng cười của anh vỡ cả không gian, nhưng khi đối diện với chính mình thì tiếng cười nói ấy như biến vào thinh không. Anh đứng trước “Cõi phàm” thì:
Cõi phàm liên nhu ta dâng
Uống cạn chén đời bật khóc
Nghìn năm dẫu chưa bạc tóc
Một lời đủ chạnh niềm riêng.
Rồi Nguyễn Bạch Dương khô khốc đến nỗi khi chọn cái tựa cho bài thơ cũng trơ trọi một từ “Lời” với ba âm ngắn ngủn. Anh ví lòng mình như một cái đáy giếng kiệt nước trơ ra những chiếc lá vàng, một giọt mưa lạc lỏng rơi vào cũng làm ta ngỡ ngàng sững sốt. Anh cần có những giây phút yên lặng, lời anh thống thiết van nài:
Giếng tôi khô kiệt nước rồi
Em đừng ném sỏi nghe lời lá vang
Chút mưa cũng chỉ ngỡ ngàn
Làm sao thấu được mạch khan một đời.
Còn Phạm Thị Quý trớc trò chơi “Đu quay” rất bình thường của bọn trẻ, bất chợt ở khoảnh khắc ngắn ngủi chị phát hiện trên cái vòng quay chóng mặt ấy vị trí của người nầy mất đi thì người khác thay vào. Phải chăng đó là quy luật muôn đời mà con người không thoát ra được:
Trẻ con đu quay rất đổi hồn nhiên
Đâu nghĩ mình đang đổi nhau vị trí
Chỉ có chúng ta trước trò chơi giản dị
Bỗng nhận ra mình trên chiếc đu quay.
Và trước mặt mình cuộc sống đang xoay
Với nhiều vòng tròn chóng mặt.
Lại có người ví mình như một sinh vật nhỏ bé để nói lên quan niệm sống. Tầm Học qua bài “Con kiến vàng”:
Thân mình nhỏ nhít sánh chi voi
Phận kiến đâu ham miếng mặn mòi
Hay:
Lớn bé trẻ già chung một tổ
Nêu gương hòa nhẫn đáng vàng thoi.
Hoặc Phan Phúc Bình gắn đời mình vào dòng phấn trắng, bục giảng. Từ chỗ đứng bình thường anh đã thốt lên:
Đường đời chên vênh, đường đến lớp gập ghềnh
Nơi bục giảng cò dễ đâu bằng phẳng
Nếu chẳng giữ để bước chân hụt hẫng
Thì mực tím học trò chỉ còn là nhớ thương.
Cuộc sống mỗi ngày có khó khăn, nhiều người hụt hơi chạy theo cơm, áo, gạo, tiền còn anh vẫn dửng dưng:
Và mỗi ngày, trên bục giảng mỗi ngày
Ta vứt bỏ áo cơm ngoài cửa lớp
Như phấn trắng dẫu mòn đi thầm lặng
Chút bụi cuối cùng cũng cố giữ màu riêng!
Có lẽ đất Vĩnh Long đã giữ chân nhiều người từ xa đến. Có người rất an tâm khi nhận nơi đây làm quê hương thứ hai của mình. Ta thử tìm về Vĩnh Long vùng đất phù sa giữa hai nhánh sông Tiền, sông Hậu để nghe Sao Vàng nói về quê mình qua bài “Thương quê nội nhớ về quê ngoại”:
Thương quê ngoại nhớ nhiều quê nội
Hạt phù sa thơm hoa trái bốn mùa
Dòng nước ngọt ôm cánh đồng màu mỡ
Mùa hè vui quanh bóng mát hàng dừa.
Sao Vàng khắc hoạ quê hương của mình bằng những hình ảnh mộc mạc, bình dị như hạt phù sa, hàng dừa, hoa trái, đồng ruộng. Với Sao Vàng ở nơi đâu cũng là cội rễ cả:
Một núm ruột hai quê thương nhớ
Lá rơi nào khỏi cội xa nguồn
Khi con ở xa chân trời góc biển
Tấm lòng nào không nặng nghĩa quê hương?
Dù quê nội hay quê ngoại, quê anh hay quê em, tôi có cái cảm nhận hơi “hồ đồ” là những bài thơ trong tập “Văn, thơ, nhạc” hầu như những người cầm bút cũng gởi gấm vào Vĩnh Long những tình cảm đậm đà sâu nặng. Từ rặng bần, con đò, bến nước; từ con tôm, con cá, con đom đóm dân dã. Hữu Nghĩa với “Cây bần”:
Nhớ con nước dỡ chà bần bên vịnh
Vui nôn nao tôm cá mấy khoang đầy
Nhớ làm sao nồi canh chua bần chín
Ven bải cồn bè bạn xúm lai rai.
Và:
Bần giản dị đến âm thần lặng lẽ
Cứ đêm đêm đom đóm rủ nhau về
Thắp cho bần lấp lánh ánh đèn khuya.
Người địa phương nặng tình với quê hương Vĩnh Long là điều hiển nhiên, nhưng người từ xa đến càng quay quắt hơn đó mới là chuyện lạ. Cái gì làm cho họ cồn cào ray rức? Ồ đây rồi! Tôi đã bắt gặp Dương Thanh Thanh đến với quê hương thứ hai của mình qua bài “Con gái Huế làm dâu”:
Chưa quen cả con nước ròng, nước lớn
Chỉ biết cầu tre qua câu hát ví dầu
Mà làm sao em dám về làm dâu
Quê anh?
“Con gái Huế răng mà gan giữ rứa?”
Em chỉ cười nghe câu ghẹo thương yêu.
Đúng. Dương Thanh Thanh chỉ biết mỉm cười. Tôi chưa thấy Thanh Thanh cười khi được ghẹo, nhưng tôi tin chắc trong nụ cười đó phản phất cái lo. Lo không có mẹ bên cạnh dạy nấu canh chua Nam bộ, lo không có mẹ nắm tay qua dắt cầu khỉ gập ghềnh. Nhưng bạn đừng phập phồng lo sợ nữa. Vì chàng trai Nam bộ ấy sẵn sàng làm thay bạn mọi việc. Đọc bài thơ chị, ta thấy chị đột ngột chuyển từ “Mẹ” theo tiếng gọi rất quen thuộc phong tục người miến Trung, đặc biệt là ngưới gốc Huế sang từ “Má” rất phổ biến của người miền Nam:
Em quen tự bao giờ chẳng rõ
Tần tảo thân cò, em yêu Má nhiều hơn
Hoá ra Má của anh là Mẹ của em. Cũng là những bà mẹ thật thà chất phác, cũng thân cò lặng lội bờ sông và chị cũng đồng ý”suốt đời” ở lại Vĩnh Long, vì:
Vì tình yêu..em đã: Về làm dâu
Quê anh.
Những dòng thơ trên là tấm lòng bộc bạch của người con gái nhận Vĩnh Long làm quê hương thứ hai. Còn người con trai thì như thế nào? Ta nghe Phan Tư Thúy tâm sự bằng những vần thơ trữ tình ngọt ngào man mác:
Anh chứa tình yêu em trong nỗi nhớ dòng sông
Trong bóng màu xanh của màu cây và mắt biếc
Làm lòng anh cứ cồn cào luyến tiếc
Cớ sao mình chẳng ở bên kia sông?
Bên cạnh dòng sông còn thấp thoáng rặng bần và con đò lặng lờ trôi theo dòng nước. Dường như nơi đây Nguyễn Mẫn Cán một lần “tiễn chị”:
Chị về, em lại tiễn đưa
Đò ngang một chuyến, giữa trưa ngập ngừng
Tay cầm, mắt chị rưng rưng
Lao xao con nước, rặng bần bên sông.
Vô tình hay cố ý, trên cùng một trang thơ Nguyễn Mẫn Cán “Tiễn chị” vừa xong lại tiếp tục “Đưa người xa xứ”:
Mai em đi Cali
Buồn tênh người xa xứ
Ly bia đầy sóng sánh
Em cố uống thật say.
Mới đọc ba dòng thơ đầu tôi cứ ngỡ người uống bia là anh chứ không phải em. “Buồn tênh nguời ở lại” chứ không phải người xa xứ. Nguyễn Mẫn Cán dồn cái buồn cho người xa xứ. Em nâng ly cố uống thật say để ngày mai hãy tỉnh. Cái tỉnh sau cơn say mới thấm thía:
Nỗi buồn dâng mắt biếc
Ngút ngát tình cố hương.
Em đi rồi biết ngày nào trở lại. Sau cuộc chia tay ấy còn đọng lại dư âm, đợi chờ và nuối tiếc. Lắng nghe tâm sự của Ngọc Hải qua “Dư âm”:
Biết bao giờ thèm về mái nhà không?
Hay ngơ ngác trên bước đường rong ruổi
Cánh chim xa trông chờ nhau đã mỏi
Biết bao giờ cho đến bao giờ?
Đợi chờ, hoài vọng và sựu trống vắng vây quanh ta. Còn đâu cái thời ta hào phóng đem cả trời biển ra tặng cho nhau và nhận về mình vị đắng của nỗi buồn như “Không đề” của Thành Khởi:
Tôi có nỗi buồn làm tràn ly rượu
Rượu mềm môi-Chảy hết về tim
Tôi có niềm vui làm liền dấu chân chim
Nhưng – niềm vui ít đến
Tôi tặng em điều này
Và nhận về mình
Một chút đắng cay.
Trong tình yêu có cho mà không nhận, có người nhận mà không cho. Ngọc Mai do dự với “Tự tình II”
Muốn cho anh nhưng ngại câu hò
Giếng sâu, giếng cạn…
Em không tiếc sợi dây dài
Mà chỉ tiếc đời nhau.
Họ cứ sợ sệt, thăm dò. Không ai dám ngỏ lời trước để lòng bồn chồn quay quắt, nói xa, nói gần. Văn Lệ Trinh như hoá đá trước tình cảm ấy qua bài “Đêm trăng”:
Canh cánh lòng quay quắt nhớ người xa
Trăng đắm say thả mộng xuống quê nhà
Trăng rất thật còn anh thì hư huyễn
Đêm mênh mông cỏ cây cùng hòa quyện
Trơ trọi một mình em hoá đá dưới trăng
Riêng Thái Hồng thì nói xa, nói gần:
Dân ca có tự tháng ngày
“người dưng khác họ…” dễ đày doạ nhau.
Rồi hai kẻ người dưng khác họ ấy ngoan ngoãn tự hành hạ chính mình để chắt lọc ra nụ cười đầy nước mắt:
Như con chiên của Chúa
Ta cúi tạ ơn nhau
Xin giữ gìn tiếng khóc
Xin giữ gìn nụ cười.
Hoặc úp úp mở mở như Hồ Duy. Khi anh đã hiểu em rồi, nhưng cứ chờ anh lên tiếng trước. Hồ Duy do dự hoài rồi chọn ngày đầu năm tỏ tình để “lấy hên” nhưng mãi vẫn không thốt ra lời phải chờ đến năm sau và nhiều năm sau nữa mà nói không thành lời tiếng yêu em:
“Dặn lòng rằng tết năm nay
Sang thăm em sẽ nắm tay tỏ tình”

“Thôi đành hẹn lại hôm sau
Gặp em viện lẽ có câu chuyện cần”

“Mồng ba lần nữa sang nhà
Thấy em nâng nhẹ cánh hoa mai vàng”

“Đêm nằm mùng bốn nhủ thầm
Trộn yêu em đến hết năm tỏ tình”
Khi sợi chỉ đời trói buộc những người yêu nhau thành vợ, thành chồng. Anh đối đầu với cơm áo, gạo tiền. Em tay bế, tay bồng bếp núc lo cơm nước chồng con. Bất chợt anh lặng nhìn con ngủ trong vòng tay em và tự hỏi:
Con ngủ rồi em mới ngủ phải không
Anh lặng ngắm sợ làm em thức giấc
Em nhẹ cười. Tay nắm lấy tay con
Ừ ngủ đi, em cứ ngủ cho ngoan
Con ngoan lắm nương vào hơi mẹ
Bao toan tính của đời thường lặng lẽ
Cũng tan đi trong giấc ngủ yên bình
(Lặng nhìn em ngủ-Bằng Lăng)
Chiến tranh đã đi qua, chúng ta đang ở trong đất nước thanh bình, nơi bọn trẻ dễ gần nhau, tình yêu dễ đâm chồi kết trái. Nhưng Thuý vân vẫn không quên tìm về biên giới chia sẻ với những người lính đang thức cùng gian tuân:
Nếu không đến cùng anh
Làm sao em biết được
Biên giới rừng mênh mông
Sương đêm thấm buốt lòng.
Từ biến giới, Thuý Vân buốt lòng cùng người lính trẻ, còn hậu phương Ngọc Hiệp cũng chạnh lòng trước “Những bia mộ không tên”:
Tôi đến bên dãy đất mọc ven đường
Những nắm đất xếp hàng cùng đồng đội
Tôi lặng lẽ đọc tên từng bia mộ
Bỗng bàng hoàng vì bia mộ không tên
Chiến tranh qua rồi còn lại nỗi đau
Xã vùng sâu mọc lên bao nắm đất.
Chuỗi thời gian đất nước thay da đổi thịt. Người làm thơ tiếp cận trước màu sắc của cuộc sống thanh bình. Vết thương chiến tranh còn lành hẳn không khi ngồi trên bàn nhậu bất chợt Văn Quốc Thanh phát hiện người lính trở về với thân hình không lành lặng:
Ngừơi lính già tôi gặp chiều nay
Dáng khập khễnh cứ nghiêng về phía trước
Dấu chấm phẩy viết ra sau mỗi bước
Đuổi theo ông đến cuối cuộc hành trình.
Rồi:
Ta chợt hiểu từ đôi chân ấy
Dấu chấm phẩy viết ra từ máu thịt của con người.
Tuyển tập “Văn, thơ, nhạc Vĩnh Long 20 năm” còn rất nhiều câu thơ, đoạn văn, dòng nhạc phản ánh muôn màu muôn vẻ về tình đất, tình người. Hai mươi năm đâu phải là dài, nhưng với ngần ấy thời gian cũng đủ cho chúng ta suy gẫm nhiều về cuộc sống.
Những dòng viết trên đây là phút giây bất chợt của một người yêu thích thơ, không mang tính phê bình nghiên cứu văn học nhiều. Bên cạnh những câu thơ vừa trích còn nhiều truyện hay và dòng nhạc ấm áp tình người. Hy vọng một ngày nào đó sẽ có nhiều bài viết nhận xét sâu sắc dành cho Tuyển tập nói về văn, thơ, nhạc của vùng đất Vĩnh Long giàu đẹp.
VQT





Cảm nhận Hồi ký “Một chặng đường đời” của Lưu Kim Trang”


Văn Quốc Thanh


Ngày 8-3 đọc Hồi ký “Một chặng đường đời” của Lưu Kim Trang”



Đất nước ta đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh lâu dài, dân tộc phải gánh nhiều đau thương mất mát. Xóm làng xơ xác. Con mất cha, vợ mất chồng, anh chị em ly tán, nhiều gia đình đã dâng cho Tổ quốc những người con ưu tú đến giọt máu cuối cùng.
Đọc hồi ký “Một chặng đường đời” của tác giả Lưu Kim Trang, tôi thấy chị cùng chồng đã vượt qua rất nhiều thử thách, gặp muôn vàn khó khăn, nhưng họ vẫn bền gan động viên nhau giữ vững niềm tin trong suốt chặng đường kháng chiến. Họ có phần may mắn cùng đồng đội trở về dầu thân thể không đựơc nguyên vẹn và tiếp bước phần đời còn lại, góp tay xây dựng đất nước ngày hậu chiến đang đối diện với bao ngổn ngang chồng chất.
Đối với các văn nghệ sĩ chuyên nghiệp, đề tài chiến tranh là nguồn cảm hứng vô tận. Chúng ta đã có nhiều tác phẩm âm nhạc, nhiều bộ phim đủ các thể loại, có rất nhiều thơ, trường ca, truyện ngắn, tiểu thuyết và các loại hình khác, nhưng còn rất ít tác phẩm của những người lính, người cán bộ cách mạng bình dị từ trong cuộc chiến viết về chính cuộc đời họ. Chị Lưu Kim Trang đã làm được điều ấy như lời chị bộc bạch: “Ở vào tuổi thất thập này, tôi nghĩ suy rồi mạnh dạn viết về những ký ức trong tôi để trao cho con cháu, bạn bè, người thân, hầu làm món quà tinh thần với những kỷ niệm khó quên. Với tính chân thật hiểu sao, nhớ sao, làm sao viết vậy. Không tránh khỏi những sơ suất, để cuốn sách nhỏ về “Một Chặng Đường Đời” được truyền cảm cho con cháu, bạn bè, người thân sâu đậm nghĩa tình.”
Khi lật từng trang hồi ký “Một chặng đường đời” tôi vô cùng xúc động, ngay dòng viết đầu tiên: tôi sinh ra bị “lốc lọt” trên kẻ vạt ở một lung sâu vùng Đất Mũi, bốn bề sông nước quạnh hiu vang vọng tiếng gầm gừ thú dữ, người mẹ tự tay cắt rốn cho con rồi chị lớn lên trong sự tảo tần của mẹ chằm lá bán, cha nhọc nhằn đủ thứ nghề như thợ mộc…
Chị vẽ lại cảnh miền quê sông nước vùng đồng bằng sông Cửu Long nơi in đậm dấu chân chị đi qua, vẽ lại những tháng ngày gian nan nhất của một người nữ cán bộ luôn sẵn sàng “thiên biến vạn hóa” khi đối mặt với kẻ thù, hình ảnh người mẹ bầu sữa căng tròn đang làm nhiệm vụ trong khi đứa con thơ khát sữa cháy cả ruột gan. Vẽ lại gương mặt đầy nghị lực của người cha, nét hiền lành chân chất của người mẹ, hình ảnh người thầy cần mẫn uốn nắn cho trò từng nét chữ dưới chiến hào. Vẽ lại những nét mặt rạng ngời đầy ắp tình chồng nghĩa vợ, tình yêu thương đồng bào, đồng chí, sẵn sàng giành lấy sự hy sinh mất mát về mình cho đồng đội vẹn toàn, vẽ lại lòng tin vững bền ngày mai chiến thắng.
Trong đêm sâu bầu trời yên ả, một tiếng nổ vang lên, một tiếng “đì đoàng” vọng lại, chị thắt thỏm lo âu không biết đầu làng cuối xóm chuyện gì xảy đến? Rồi từng chiếc cáng khiêng lên, từng nhát cuốc đào sâu vào lòng đất chôn vội đồng đội, lòng chị quặn đau :
Chiến tranh cướp mất bao người
Đồng bào, đồng chi máu rơi khắp miền
(Mất cha)
Hình ảnh bậc sinh thành như một bóng cây vươn cao tỏa rộng theo mỗi bước chân con trên vạn nẻo đường chiến đấu và chị đau đáu trong lòng biết bao giời mới trả được chữ hiếu cho cha mẹ, một niềm yêu thương vô bờ bến ôm ấp mãi trong lòng:
Thương cha sống cảnh gian lao
Vượt bao khốn khó đói nghèo nuôi con
(Mất cha)
Hay:
Mẹ nghèo sống cảnh gian nan
Chắt chiu vượt khó nuôi con vẹn toàn
(Mất mẹ hiền)
Mặc dù trong vùng bom cày đạn xới, mọi người phải học, phải biết chữ để tiếp cận khoa học, sử dụng vũ khí, y cụ, để thoát cảnh xiềng xích ngục tù, thoát cảnh nghèo nàn lạc hậu. Các thầy cô ngày ấy là các chú, các cô, các dì… người biết chữ dạy người chưa biết chữ:
Cô thầy giảng dạy mỗi ngày
Mong trò vững bước, đức tài sáng trong
(Nhớ thầy cô)
Gian khổ hôm qua được bù đắp bởi thành quả của ngày nay, đất nước ngày càng thay da đổi thịt, xóm làng xanh ngát hoa thơm trái ngọt, nhà nhà rộn ràng vui đón những mùa xuân về trong hòa bình- tự do-độc lập:
Xuân về trên đất Vĩnh Long
Hoa thơm trái ngọt thắm trong lòng người
(Xuân về)
Trong một chừng mực khiêm tốn, bằng mạch văn giản dị, chân chất và những vần thơ mộc mạc chị đã góp phần cho thế hệ mai sau thấy được tinh thần lạc quan yêu nước của đồng bào, đồng chí vùng đồng bằng sông nước Cửu Long một lòng đi theo tiếng gọi của non sông dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngày đêm bám đất giữ làng và sẵn sàng hy sinh đến giọt máu cuối cùng. Không những thế, dù đất nước hòa bình nhưng họ vẫn không tự mãn ngủ quên trên chiến thắng, anh chị lại lao vào nhiệm vụ mới góp tay xây dựng cho quê hương giàu đẹp.
Văn Quốc Thanh

Chủ Nhật, 18 tháng 3, 2007

Tình già


(Tặng Việt Chung)

Ngọc Hiệp

Qua thời tình mới lập xuân
Nghe hương ân ái vẫn gần đâu đây
Quàng tay ôm dáng hao gầy
Mới hay ta đã tàn phai mất rồi
Ái ân hơn nửa kiếp người
Chỉ mong níu lại tình đời chiều hôm
Hoàng hôn ta đã hoàng hôn
Ngày mai trở lại ráng hồng bình minh
Yêu nhau đâu phải tội tình?
Chỉ mong lấp nỗi đời mênh mông buồn.

Thứ Ba, 6 tháng 3, 2007

Hoa xương rồng

thơ
Văn Quốc Thanh

Mỏng
Tôi rút ra từ tập thơ dày
Những câu chữ xô nghiêng, lệch lạc
Của một người yêu thơ
Của một người làm thơ
Ai bảo chỉ có lạc đà
Mới dám qua sa mạc
Người bạn thơ của tôi
Hiên ngang
Lột dép chân trần
Bơi
Trong sa mạc
Tôi,
Cây xương rồng nhỏ
Gai thay lá
Nụ
Hoa
Hoa xương rồng.

Đêm Nguyên Tiêu 04/3/07
VQT

Chủ Nhật, 4 tháng 3, 2007

Ngày xuân nhớ cảnh hai quê

thơ:
Văn Quốc thanh

Quê tôi :

Quê tôi đất dậy hương nồng
Ngày xuân nhớ xứ như sông nhớ đò
Nhớ từng lối nhỏ quanh co
Lời ru tiếng hát câu hò mẹ cha
Nhớ sao những buổi chiếu tà
Khói mờ lan nhẹ, mái nhà nghiêng nghiêng
Nhớ sông Ái Nghĩa mấy thuyền
Lá dâu tấm lụa Duy Xuyên Điện Bàn
Nhớ vùng cát mịn Hòa Vang
Bãi dưa Đại Lộc mai vàng Hiếu Nhơn
Hạt cơm nồi đất Quế Sơn
Nước sông Bà Rén đất thơm mùi sình
Máu người vấy đập Vĩnh Trinh
Nhớ ai vì nước quên mình đó đây
Nhớ thân trong ngục tù đày
Mà hồn vui với tiếng chày trăng thanh
Hà Lam mía ngọt đất lành
Thu Bồn nhớ nước tưới xanh ruộng đồng
Nhớ người em nhỏ đợi trông
Đưa anh du kích sang sông hiểm nghèo
Hải Vân đồi dốc cheo leo
Nhớ em vượt suối băng đèo hiểm nguy
Nam Ô nhớ sắn nhớ mì
Nhớ từng lối nhỏ ta đi đêm ngày
Nhớ rừng Liêm Chiểu ngủ say
Giao liên nhớ suối đưa tin thay người
Ngũ Hành Non Nước xanh tươi
Sơn Trà đẹp tựa nụ cười của em
Trăng khuya dừng lại trước thềm
Nhớ hò kéo pháo những đêm công đồn
Hàng Bằng nắng nhuộm hoàng hôn
Dáng em thấp thoáng cuối thôn Gò Vàng
Nhớ đường phố cũ Hôi An
Xưa em say giấc mộng vàng kiêu sa
Nhớ từng cơn gió thoảng qua
Thịt rừng Thường Đức mắm cà Dùi Chiên
Đò Trung nhớ khách Nam duyên
Lòng anh một thuở nhớ thuyền em sang
Dừng chân bên bến sông Hàn
Nhịp cầu Đà Lách bắt sang phố Đà
Xe dừng bến chợ Vườn Hoa
Nhớ em dạo bước thăm qua phố phường
Nhớ mùa xuâm đậm sắc hương
Bướm ong bay lượn trong vườn nắng mai
Hè sang thăm bóng phượng dài
Tiếng ve mời gọi có ai thấu lòng
Thu về thăm mặt ao trong
Cỏ rêu chờ đợi bên dòng thời gian
Gió đông lay động cành bàng
Trời chiều trở rét gió ngàn thông reo
Xe lăn qua chậm dốc đèo
Lắng tai nghe tiếng chim kêu xa gần
Bồn chồn nhớ khách dừng chân
Non non - nước nước - gần gần - xa xa
Nhớ hồi con bướm say hoa
Và em say bóng trăng tà quê tôi
Nhớ ta say giấc mộng đầu
Cho con tim nhỏ bắt cầu tri âm
Nhớ lời nguyện ước trăm năm
Giúp tôi tìm mối con tằm nhả tơ

Quê em:

Chiều chiều nhớ bến đò ngang
Bình Lương, An Thạnh rộn ràng tim tôi
Quê em không có núi đồi
Nhưng mà nỗi nhớ bồi hồi biết bao
Nhớ dòng sông Cửu ngọt ngào
Như bầu sữa ấm chạy vào thịt da
Bần ngồi trên bãi phù sa
Thay người canh giữ nươc nhà yên vui
Gió đưa hoa dại thoảng mùi
Đèn khuya đom đóm giúp em xuôi chèo
Gập ghènh cầu khỉ lắt leo
Nhấp nhô trên sóng cánh bèo đong đưa
Nước xanh soi bóng hàng dừa
Khe Luông vườn bưởi cũng vừa đơm bông
Quanh năm mận mặc áo hồng
Cầm chân khách lạ nhãn lồng chắt chiu
Ổi xanh hong sợi nắng chiều
Vườn cây trĩu nặng bao nhiêu nghĩa tình
Đầu cồn chim gọi bình minh
Cho hoa nhớ bướm cho mình nhớ ta
Lồ Ồ co rạch chảy qua
Hương mùi mít mật đậm đà thuỷ chung
Nao nao xoài, cốc tao phùng
Chôm chôm, long nhãn đã chung lối về
Mấy lời nguyện ước lựu, lê
Quýt đường, cam mật đi về có nhau
Nhìn cây vú sữa hai màu
Nhớ loài trái ngọt lòng sầu khép riêng
Hương thơm tỏa khắp ba miền
Báo tin Nam Bắc nối liền thịt da
Thì thầm nhắn với khách xa
Chuối cồn Tân Tạo trái ra bốn mùa
Khát lòng nhớ vị chanh chua
Tung tăng mặt nước gió đùa với mây
Quê em nghĩa nặng tình đầy
Say lòng khách lạ phút giây mặng nồng
Con đò kể chuyện dòng sông
Quê em có những chiến công anh hào
Đêm dài trên đất cù lao
Ta nghe nỗi nhớ rạt rào âm vang
Quanh co nhớ nẻo đường làng
Trời xuân lộng gío nắng vàng hắt hiu
Dấu chân in lại nắng chiều
Hoa xuân đã điểm ít nhiều nhớ mong
Nhạc đâu trổi dậy trong lòng
Cung đàn thánh thót như dòng suối reo
Vì thương nên núi cũng trèo
Cách sông cũng lội, cách đèo cũng sang.
Xuân 1977

Thứ Bảy, 24 tháng 2, 2007

Tóc thề trong mưa

thơ
Van Quoc Thanh

Bỗng dưng mưa đổ bên thềm
Hoen đôi mắt ướt theo em tan trường
Chỉ trời mưa dệt sợi thương
Ta mang nối lại tìm đường sang sông
Trời thương bắt nhịp cầu vồng
Giúp người khác họ phải lòng tìm nhau
Dẫu không là mối tình đầu
Em đừng cởi áo qua cầu gió bay
Vô tình sợi tóc vướng tay
Ngỡ rằng con gái gió lay tóc thề
Trời sinh ta lỡ ngô nghê
Đuổi hoài theo mái tóc thề trú mưa.

Bến xưa

thơ :
Văn Quốc Thanh


Một chiều qua bến bắc
Sóng Cổ Chiên dâng đầy
Tình yêu như thức dậy
Người thương ơi có hay?

Tiếc hoài xưa bên em
Lời yêu không dám ngỏ
Để tình bay theo gió
Đuổi hoài với tháng năm.

Chiều nay qua bến bắc
Người xưa đâu mất rồi?
Nhập nhòa con sóng vỗ
Hững hờ lục bình trôi.

Dương Thanh Thanh giới thiệu thơ “Mẹ xem tin lũ” của Văn Quốc Thanh

Dương Thanh Thanh
giới thiệu
Mẹ xem tin lũ
thơ của
Văn Quốc Thanh

Văn Quốc Thanh là một người viết bút ký khá quen thuộc của Tạp chí Văn nghệ Cửu Long. Tên anh cũng xuất hiện dưới một số bài thơ dễ thương, duyên dáng mới nghe tên đã thấy tình như "Nhặt tóc thả diều ", "Tìm em người sơn nữ " . Hay bài thơ Em về bên kia sông đăng trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội gần đây nói về cuộc chia tay đầy nhung nhớ trong mùa mưa lũ của một đôi bạn trẻ. Đôi lúc tôi băn khoăn không biết gọi Văn Quốc Thanh là nhà thơ hay là nhà văn? Và thật sự anh thích thể loại nào hơn? Đọc “Mẹ xem tin lũ”, dường như đã có câu trả lời, có lẽ anh đã bộc lộ rõ sở trường của mình. Hay nói đúng hơn, anh đã vận dụng nhuần nhuyển “con mắt’ của người viết ký nhạy bén, tinh tường vào một bài thơ tường thuật đầy xúc cảm. Mấy câu thơ mở đầu, như mở đầu một thiên ký sự:

Giờ thời sự Mẹ qua nhà hàng xóm
Trên màn hình lũ xoá một vùng quê
Đồi trọc, rừng thưa Không ngăn nỗi lũ về
Tiếng gào thét như nghiêng trời xé gió.

Chuyện về một bà mẹ nghèo, đơn độc đi xem nhờ truyền hình nhà hàng xóm. Nhưng mẹ không đi xem cải lương! Mẹ hóng giờ thời sự để đi xem tin lũ! Tôi dùng từ "hóng" vì có lẽ cái cảm giác khắc khoải thắt thỏm đợi chờ mà Văn Quốc Thanh muốn diễn tả. Một chi tiết ngỡ tầm thường mà lại rất đắt để mở đầu một bút ký về tình người thoáng chút phê phán sự vô tình đến nỗi vô tâm của con người với thiên nhiên.
Ai đã từng ngồi trước màn hình tivi những ngày bảo lũ, thắt ruột gan nhìn cảnh “Mưa điên cuồng trút nước xuống trần gian. Cửa nhà trôi lũ quét bạo tàn”, hẳn sẽ đồng cảm với Mẹ, với “Đôi má hóp hom hem lệ nhỏ. Mẹ lao lên về phía truyền hình”. Không còn phân biệt được thực, hư; trước mắt mẹ là vạn kiếp sinh linh đang dập vùi trong cái chết. Mẹ muốn cứu người. Mẹ cần phải cứu người! Câu thơ “Mẹ lao lên về phía truyền hình” lặp lại hai lần, đọng lại trong lòng người đọc một ánh mắt thất thần, một dáng vẽ “ngơ ngác” khi mẹ đã bất lực. “Đồi trọc, rừng thưa không ngăn nỗi lũ về”, như đôi tay mẹ bấu chặt màn hình, cảm nhận được dòng nước xoáy, cảm nhận được cái chết từng giây, từng phút xoá dần sự sống, nhưng mẹ bất lực. “Phút căng thẳng mẹ ngây ra ngờ nghệt”. Tác giả vẽ chân dung mẹ trong khoảnh khắc ấy mới chân thực làm sao! Tôi muốn mở một cái ngoặc nhỏ nói thêm về ý tứ đầy trách nhiệm công dân của Văn Quốc Thanh. Một ý tứ thật sâu, thật thấm mà chỉ như vô tình thoáng qua, vô tình nhắc tới ở câu thơ "Rừng trọc, đồi thưa không ngăn được lũ về" mẹ muốn cứu người, mẹ tuyệt vọng dùng đôi tay gầy guộc níu giữ sự sống trong khi chính sự sống ấy một phần do bàn tay con người hủy hoại
Bài thơ tả thực ở phần đầu với một cảm xúc nghiêng vể tự sự - cách viết rất khó diễn tả hết cảm xúc của nhà thơ, cũng như rất khó để tạo sự đồng cảm ở người đọc.
Văn Quốc Thanh đã làm được diều “rất khó” ấy một cách bình dị. Bình dị như các câu thơ anh viết ra là sự thực không cần tô vẽ, không cần dụng công.
Đến những câu thơ tiếp theo thì mạch thơ đã chuyễn đổi. Không còn tiếng gào thét của mưa rơi, lũ cuốn. Tivi, có lẽ đã tắt rồi. Mẹ về nhà, một mình, lặng lẽ. đêm thì tối và ngoài kia, bầu trời yên tĩnh.

Bão táp qua đi, Mẹ đến bàn thờ
Cây nhang cháy biết ai người thân thuộc
Thôi, mẹ đốt cho miền Trung núm ruột
Chút khói hương sưởi ấm lòng người.


Đọc bài thơ này tôi tự hỏi Nhà thơ có nghĩ đến “Văn tế thập loại chúng sinh” khi viết mấy câu thơ? Mẹ có biết Nguyễn Du cũng đã từng khóc trước muôn vàn sinh linh, dù “không biết ai người thân thuộc”?

Thôi mẹ đốt cho miền Trung núm ruột
Chút khói hưng sưởi ấm lòng người.

Cái chắt lưỡi xót xa của mẹ trước bàn thờ, dường như đã quá đủ cho một hình dung về cái gọi là “chủ nghĩa nhân văn” trong đạo lý dân tộc - dường như cũng đủ là “ấm lòng" những ai đã mất, những ai còn sống sót qua bão dông. Thế nhưng với mẹ, thì sự đồng cảm đến từng nhịp thở, sự đau đớn đến từng nếp nhăn trên “đôi má hóp hom hem” ấy, vẫn chưa thể khiến mẹ nguôi ngoai:

Nhà dột nát thân gầy như que củi
Sợi tóc bạc phơ rũ xuống lưng còn
Va li rách còn dăm ba tiền lẻ
Bàn tay run gom lại từng đồng
Miếng khi đói…ôi tấm lòng của mẹ
Có gì hơn ngoài cuộc sống long đong?

“Ngoài cuộc sống long đong" ấy là một tấm lòng! Mẹ nghèo. Mẹ ít học nhưng mẹ thuộc nằm lòng lời dạy của cha ông “miếng khi đói bằng gói khi no”. Mẹ biến bài học ấy thành một triết lý sống của cả một đời, ở bàn tay run gom lại từng đồng…Nhà thơ tả chân thực chiếc va li rách, nhà thơ không giấu che tấm thân mẹ gầy như que củi"… Mà sao, trước mắt mọi người lại hiện ra một hình tượng tuyệt đẹp - của tình người, của lòng nhân ái? Và gì nữa. tôi hình dung một chiếc lá. Chiếc lá ấy không lành lặn. Chiếc lá ấy sắp rời cành. Nhưng trong từng thớ lá vẫn rung lên nhịp đập mãnh liệt của một trái tim chỉ muốn bao trùm “vạn kiếp sinh linh” trên cuộc đời này. “Lá lành đùm lá rách”. Nhân dân ta nói thế. “Lá rách ít bọc lá rách nhiều”. Nhân dân cũng nói thế. Mẹ là chiếc lá rách nhiều, nhưng, chiếc lá ấy bọc trái tim vàng!


Tôi biết, tôi đã không thể diễn tả hết những điều tác giả tâm đắc, cũng như không phân tích tận cùng cái hay của bài thơ ẩn giấu đằng sau những câu chữ có vẻ bình dị ấy. Tôi chỉ nói được những gì mình rung động…vì quà thật, khi chọn giới thiệu bài thơ này, tôi đã có những lý do rất riêng tư. Bài thơ đối với tôi có một ý nghĩa đặc biệt, nhất là vào những ngày này, hàng đêm trên Ti vi, chương trình thời sự khắc khoải báo tin lũ lớn đang tràn về…Nó làm sống lại trong tôi cảm giác thắt thỏm, tưởng cháy cả ruột gan khi chính tôi…vâng chính tôi cũng đã từng, hàng đêm ngồi trước màn hình, hóng giờ thời sự để xem tin lũ ở miền Trung, ở Huế quê tôi những ngày tang tóc trong cơn lũ Thế kỷ cuối 1999 - Thời điểm anh Văn Quốc Thanh sáng tác bài thơ.


Cám ơn Văn Quốc Thanh, cám ơn bài thơ…và cám ơn Mẹ đã chia sẻ bao nỗi niềm.

Tháng 9/2001
Dương Thanh Thanh (phó GĐ Thư viện KHTH Vĩnh Long)

Thứ Sáu, 16 tháng 2, 2007

Goá phụ

nhà thơ Song Hảo

Anh đi qua đời em
Những mùa bão giông nghiệt ngã
Một mình em trong cơn thác lũ
Tìm bàn tay anh bám víu sẻ chia.

Thời gian năm tháng cách xa
Anh như chiếc bóng đổ dài theo quá khứ
Lạnh căm không khóc không cười
Vô tư tội nghiệp.
Ngày của hôm qua đã mất
Hoàng hôn rũ xuống đời nhau.

Đôi lúc
Em giật mình thức giữa đêm sâu
Thèm một nụ hôn nồng ấm
Chợt thảng thốt
Khi tay em chạm vào khoảng trống
Chỉ có em và hư vô.

Không biết tự bao giờ
Em đã thành góa phụ
Trong ngôi nhà luôn có anh.

Trại sáng tác Tam Đảo
Tháng 9 năm 2002



Thứ Năm, 1 tháng 2, 2007

Con dã tràng

thơ

Văn Quốc Thanh

Anh bắt tặng em con dã tràng
Để thay anh về biển Đông xe cát
Nhưng sáng nay bên bờ biển xanh bát ngát
Con dã tràng trốn xuống hang sâu
Ôi! Con dã tràng có tội gì đâu?
Mà hai đứa đào hang tìm nó
Câu hỏi ấy chính anh không hiểu rõ
Mà tay cứ chạm tay và đầu cũng gần đầu
Gió vô tình tóc quyện vào nhau
Con chim biển ngập ngừng quên vỗ cánh
Trời hong nắng trên triền cát lạnh
Sóng thì thầm muôn tiếng gọi vô biên
Và con dã tràng vẫn được bình yên
Tặng em đó, nhưng anh không tặng
lâu đài của nó
Em ơi !

Giới thiệu tác phẩm:Ngôi mộ không hài cốt của VQT

Ngọc Hiệp
**********

Đọc bài ký Ngôi mộ không hài cốt của tác giả Văn Quốc Thanh

Trước đây, đọc giả của tạp chí Văn Nghệ Cửu Long đã biết tác giả Văn Quốc Thanh qua những bài thơ : Con dã tràng, Mẹ xem tin lũ, Em về bên kia sông (Bài thơ nầy đã được Tín Đức và Quang Minh phổ nhạc) …và một số bài ký khác. Anh tham gia viết bút ký vào những năm gần đây. Sau một thời gian ngắn có lẽ anh đã làm cho đọc giả tỉnh nhà bất ngờ với bài ký “Ngôi mộ không hài cốt”.
Khi đọc bài Bút ký “Ngôi mộ không hài cốt” đăng trên tạp chí Văn Nghệ Cửu Long số Xuân Nhâm Ngọ (2002), tôi có ngay ý định viết đôi dòng nhận xét, vì tôi không thể nào giấu nhẹm cảm xúc tự lòng mình. Trong cảm nhận đầu tiên của tôi, đọc giả biết anh qua thơ và tiểu phẩm nhiều hơn, vậy mà anh viết bài nầy gây xúc động cho người xem. Nội dung câu chuyện đã khiến tôi ngậm ngùi cho số phận con người sống trên quê hương đã một thời chìm đắm trong khói lửa chiến tranh.
Bài ký là câu chuyện có thật của gia đình anh, một câu chuyện vô cùng cảm động.
Hai mẹ con trở về vùng quê cũ tìm mộ của người con đã hy sinh trong chiến tranh. Quá trình đi tìm rất gian nan vì sau chiến tranh không còn dấu tích. Sau cùng, những người con bày trò làm mộ giả để gạt mẹ mong bà được yên lòng. Sự yên lòng ấy cũng giả tạo. Nó trở thành mặc cảm tội lỗi trong lòng những đứa con còn sống sau chiến tranh. Nhưng với một người không có nghề nghiệp văn chương thì chuyện lòng chỉ lặng lẽ tồn tại gây đau nhói tim mình, không thể dùng ngòi bút để bày tỏ cùng ai. Anh Thanh lại có khả năng dùng văn chương để thoả nhu cầu bộc lộ của chính mình. Hơn thế nữa, chi tiết trong câu chuyện rất phổ biến so với hoàn cảnh lịch sử của đất nước. Từ đó, nó trở thành câu chuyện điển hình có nhân vật điển hình.
Từ chuyến hành hương về quê tìm mộ anh mình là Văn Công Tấn, kết hợp chuyến đi trại sáng tác ở Hà Nội đã giúp cho tác giả vượt qua được lối mòn của chính mình.
Trải qua mấy thời kỳ chiến tranh, đất nước có những bà mẹ Việt Nam anh hùng. Sự anh hùng không phải ở hình thức đeo huy chương đỏ ngực. Anh hùng ở chỗ con người cùng chia sẽ nỗi đau, coi nỗi đau của quê hương là nỗi đau của bản thân mình. Đối với dân tộc chúng ta, chịu thương, chịu khó giải quyết hậu quả chiến tranh mới thật anh hùng. Văn Quốc Thanh đã cho người mẹ xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện. Nhân vật bà mẹ lại bừng lên một kỷ niệm sâu sắc trong cuộc đời anh. Vì hoàn cảnh chiến tranh, người mẹ đã xa quê, xa những đứa con đã ra đi vĩnh viễn để đem lại sự bình yên cho Tổ quốc. Thoạt tiên, người nào xem bài bút ký nầy của Văn Quốc Thanh, đều nhìn ra được một chân dung bà mẹ mộc mạc, quê mùa. Điều đó chứng tỏ thế hệ của mẹ sống là giai đoạn đất nước còn nghèo nàn lạc hậu, chiến tranh triền miên, phương tiện đi lại không như bây giờ. Người viết dẫn truyện có bản lĩnh. Anh đã giấu đi cái nỗi đau trong lòng câu chuyện (như nén lại nỗi đau trong lòng mình để vui sống với mọi người). Hình ảnh hai mẹ con xuất hiện và bình thản đưa ta về với một vùng quê máu lửa. Nơi ấy cũng có những người cha, người mẹ từng tìm kiếm những đứa con đã hoà máu xương vào lòng quê hương xứ sở.
Tính cách của mẹ sợ mất đi những “báu vật” không có giá trị vật chất. Nhưng tôi thấy “báu vật” của nhân vật bà mẹ lớn quá. Nó là cả một tình cảm bao la đối với xóm làng, xứ sở. Không chỉ vậy đâu, tình cảm đó còn tiềm ẩn tình quê hương đầy dân tộc tính. Tác giả (nhân vật tôi trong bài ký) phân bua với người chung quanh về sự lẩm cẩm của mẹ mình chẳng qua để tự hào tính dân tộc, giàu tình cảm quê hương của mẹ anh:
-Mấy bà lẩm cẩm vậy đó. Trong giỏ có gì đáng giá ngoài chai rượu thuốc gia truyền nhức mõi và ít lít mật ong làm quà cho bà con lối xóm…
Với cái ý “làm quà cho bà con lối xóm…” đã làm cho món quà của mẹ trở thành vô giá.
Trong đời thường, chuyện người ta đi xa về có chút quà bản xứ cho nhau diễn ra hết sức bình thường, bình thường đến độ không ai còn chú ý cho việc tặng quà cho nhau là đặc biệt. Nhưng trong món quà mộc mạc của mẹ anh lại chứa đựng tình người.

Ngay từ đầu, anh đã khẳng định chủ đề tư tưởng cho bài viết của mình. Anh mượn câu chuyện “Ngôi mộ không hài cốt” để nói về một người mẹ Việt Nam không thể nhầm lẫn ai khác.
Đầu bài bút ký, tác giả đã phác thảo chân dung người mẹ hết sức đời thường nhưng lại tiềm ẩn dáng dấp của một bà mẹ Việt Nam anh hùng. Đến đoạn văn thứ ba, anh dành thời gian khơi lại hồi ức tạm lắng sau chiến tranh. Đoạn nầy thường làm cho người xem dễ nhàm chán vì tính tự sự dài dòng bởi những địa chỉ của những người trong cuộc. Thế nhưng tôi không thể xếp lại quyển Tạp chí Văn Nghệ Cửu Long. Tôi nghĩ, liệu anh có tìm thấy người liệt sĩ đang nằm yên trong vùng đất nào đó.
Đi tìm một căn nhà không có địa chỉ đã khó, đàng nầy những nhân vật của anh lại đi tìm một nấm mồ không địa chỉ. Từ đó, hi vọng tìm được nấm mồ trở thành những hy vọng mong manh rồi tắt ngấm.
Khi mẹ không tìm được xác con mình sau chiến tranh còn là một nỗi đau lớn, coi như vết thương chiến tranh còn khắc sâu lên những người đang sống. Từ đó những thành viên trong gia đình đều lao vào công cuộc tìm kiếm bất chấp gian khó hiểm nguy. Trong lúc người cha bới tìm xác con vì muốn xoa dịu vết thương chiến tranh hằn lên người mẹ, vô tình bới lên nỗi đau người khác qua hình ảnh một cụ già xuất hiện và kêu gào:
“Trời ơi! Là trời! Ai thất nhơn ác đức phá mộ cháu tôi vậy nè!”
Tác giả đã khéo léo diễn tả một vùng quê có nỗi đau nầy đan chéo nỗi đau kia. Nhưng cuối cùng, tình dân tộc đã xoa dịu hết mọi nỗi đau.
Nhân vật cụ già vừa gào thét kia lại đứng lâm râm khấn vái:
“Nam mô a di đà phật. Tôi, Nguyễn Văn Hớn vái lạy Thần linh, Thổ địa có linh thiêng thì chỉ đường cho liệt sĩ Văn Công Tấn về sum họp với gia đình”.
Một lời vái thay lời tha thứ lỗi đầy tình dân tộc, một dân tộc bao dung rộng lượng và luôn chia sẻ nỗi đau cùng quê hương xứ sở.
Nhưng cuối cùng, vẫn không thể tìm được nơi chôn tạm liệt sĩ Văn Công Tấn, thương mẹ, những đứa con bèn lén làm mộ giả để mẹ được yên lòng.Với chi tiết ngôi mộ giả trong bài bài ký tác giả đã “thắt nút” vấn đề vô cùng phức tạp:
Chúng tôi đốt cháy một trái dừa khô và ít cành cây mục cho vào quách giả làm cốt, phải khởi hành thật sớm để mọi người không biết…
Để chuẩn bị cho đoạn kết thúc bất ngờ, tác giả khai thác ngay chi tiết:
Cũng may, ngày dời mộ mẹ tôi không đòi đi theo…
Như chưa đủ yếu tố cho phần kết, Văn Quốc Thanh có một chi tiết đắc cách khi miêu tả ngày cải táng anh mình:
….Và bà muốn ngất xỉu khi nghe tôi thay mặt gia đình đọc bài tưởng niệm…
Có lẽ người đọc bình thường nào cũng nghĩ rằng sự xúc động đó là sự xúc động của một người mẹ tìm được xác con sau khi kết thúc chiến tranh. Nhờ đó, tác giả đã thành công ở cuối bài ký.
Có người bảo tôi: “Viết văn mà ca ngợi tình yêu quê hương sao mà mông lung quá! Khó viết lắm!”. Với Văn Quốc Thanh, những đoạn văn miêu tả sự kiện vừa qua đã làm cho lời nói kia vô nghĩa. Theo thiển ý của riêng tôi (không biết có chích xác hay không), giá như tác giả mạnh dạn bớt vài chi tiết nhỏ không tập trung phục vụ cho chủ đề chính, có lẽ bài ký vô cùng đậm đặc. Sự đậm đặc cần thiết cho người đọc khó quên hơn sau khi xếp tạp chí lại. Chẳng hạn bài điếu văn cải táng của nhân vật “tôi” dài có thể làm loãng đi cảm xúc. Tuy nhiên, bài ký nầy đã có một chủ đề, một nội dung thừa khả năng lấn lướt những chi tiết nhỏ không đắc cách. Điều đó được chứng minh trong đoạn kết. Tác giả kết thúc hết sức bất ngờ và cô đọng qua lá thư người mẹ giấu tận đáy rương. Lá thư đó ngầm nói người mẹ giấu nhẹm nỗi đau tận đáy lòng mình. Trong nội dung lá thư của người mẹ:

Tấn ơi, con linh thiêng hãy dẫn đường cho mẹ rước con về. Con còn nằm vất vưởng đâu đây thì đau lòng mẹ lắm. Mẹ biết tụi bay thương mẹ nên bày trò làm mộ giả…
Như mặc cảm tội lỗi về sự dối lừa anh viết lời kết thúc:
“Cầu mong…tôi không lấy nỗi đau của gia đình ra lừa dối mọi người…”
Chính những ý bất ngờ mà cô đọng đó đã làm cho đọc giả phân ranh trạng thái dối lừa. Trong cuộc sống, có những điều dối lừa đáng nguyền rũa, nhưng cũng có sự dối lừa để xoa dịu niềm đau. Có lẽ chúng ta nên lừa dối nỗi đau để nó không còn khả năng hành hạ con người.
Xếp Tạp chí Văn Nghệ Cửu Long lại, tôi nghe chừng như chuyện quê hương đang thẩm thấu vào tôi. Tôi quên mất những tỵ hiềm nhỏ nhoi ích kỹ của đời thường vốn ngổn ngang thiện ác.

Ngọc Hiệp




đọc thêm Ngọc Hiệp "Lai rai"... tâm sự