Dương Thanh Thanh giới thiệu
Mẹ xem tin lũ
thơ của Văn Quốc Thanh
Văn Quốc Thanh là một người viết bút ký khá quen thuộc của Tạp chí Văn nghệ Cửu Long. Tên anh cũng xuất hiện dưới một số bài thơ dễ thương, duyên dáng mới nghe tên đã thấy tình như "Nhặt tóc thả diều ", "Tìm em người sơn nữ " . Hay bài thơ “Em về bên kia sông” đăng trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội gần đây nói về cuộc chia tay đầy nhung nhớ trong mùa mưa lũ của một đôi bạn trẻ. Đôi lúc tôi băn khoăn không biết gọi Văn Quốc Thanh là nhà thơ hay là nhà văn? Và thật sự anh thích thể loại nào hơn? Đọc “Mẹ xem tin lũ”, dường như đã có câu trả lời, có lẽ anh đã bộc lộ rõ sở trường của mình. Hay nói đúng hơn, anh đã vận dụng nhuần nhuyển “con mắt’ của người viết ký nhạy bén, tinh tường vào một bài thơ tường thuật đầy xúc cảm. Mấy câu thơ mở đầu, như mở đầu một thiên ký sự:
Giờ thời sự Mẹ qua nhà hàng xóm
Trên màn hình lũ xoá một vùng quê
Đồi trọc, rừng thưa Không ngăn nỗi lũ về
Tiếng gào thét như nghiêng trời xé gió.
Chuyện về một bà mẹ nghèo, đơn độc đi xem nhờ truyền hình nhà hàng xóm. Nhưng mẹ không đi xem cải lương! Mẹ hóng giờ thời sự để đi xem tin lũ! Tôi dùng từ "hóng" vì có lẽ cái cảm giác khắc khoải thắt thỏm đợi chờ mà Văn Quốc Thanh muốn diễn tả. Một chi tiết ngỡ tầm thường mà lại rất đắt để mở đầu một bút ký về tình người thoáng chút phê phán sự vô tình đến nỗi vô tâm của con người với thiên nhiên.
Ai đã từng ngồi trước màn hình tivi những ngày bảo lũ, thắt ruột gan nhìn cảnh “Mưa điên cuồng trút nước xuống trần gian. Cửa nhà trôi lũ quét bạo tàn”, hẳn sẽ đồng cảm với Mẹ, với “Đôi má hóp hom hem lệ nhỏ. Mẹ lao lên về phía truyền hình”. Không còn phân biệt được thực, hư; trước mắt mẹ là vạn kiếp sinh linh đang dập vùi trong cái chết. Mẹ muốn cứu người. Mẹ cần phải cứu người! Câu thơ “Mẹ lao lên về phía truyền hình” lặp lại hai lần, đọng lại trong lòng người đọc một ánh mắt thất thần, một dáng vẽ “ngơ ngác” khi mẹ đã bất lực. “Đồi trọc, rừng thưa không ngăn nỗi lũ về”, như đôi tay mẹ bấu chặt màn hình, cảm nhận được dòng nước xoáy, cảm nhận được cái chết từng giây, từng phút xoá dần sự sống, nhưng mẹ bất lực. “Phút căng thẳng mẹ ngây ra ngờ nghệt”. Tác giả vẽ chân dung mẹ trong khoảnh khắc ấy mới chân thực làm sao! Tôi muốn mở một cái ngoặc nhỏ nói thêm về ý tứ đầy trách nhiệm công dân của Văn Quốc Thanh. Một ý tứ thật sâu, thật thấm mà chỉ như vô tình thoáng qua, vô tình nhắc tới ở câu thơ "Rừng trọc, đồi thưa không ngăn được lũ về" mẹ muốn cứu người, mẹ tuyệt vọng dùng đôi tay gầy guộc níu giữ sự sống trong khi chính sự sống ấy một phần do bàn tay con người hủy hoại
Bài thơ tả thực ở phần đầu với một cảm xúc nghiêng vể tự sự - cách viết rất khó diễn tả hết cảm xúc của nhà thơ, cũng như rất khó để tạo sự đồng cảm ở người đọc. Văn Quốc Thanh đã làm được diều “rất khó” ấy một cách bình dị. Bình dị như các câu thơ anh viết ra là sự thực không cần tô vẽ, không cần dụng công.
Đến những câu thơ tiếp theo thì mạch thơ đã chuyễn đổi. Không còn tiếng gào thét của mưa rơi, lũ cuốn. Tivi, có lẽ đã tắt rồi. Mẹ về nhà, một mình, lặng lẽ. đêm thì tối và ngoài kia, bầu trời yên tĩnh.
Bão táp qua đi, Mẹ đến bàn thờ
Cây nhang cháy biết ai người thân thuộc
Thôi, mẹ đốt cho miền Trung núm ruột
Chút khói hương sưởi ấm lòng người.
Đọc bài thơ này tôi tự hỏi Nhà thơ có nghĩ đến “Văn tế thập loại chúng sinh” khi viết mấy câu thơ? Mẹ có biết Nguyễn Du cũng đã từng khóc trước muôn vàn sinh linh, dù “không biết ai người thân thuộc”?
Thôi mẹ đốt cho miền Trung núm ruột
Chút khói hưng sưởi ấm lòng người.
Cái chắt lưỡi xót xa của mẹ trước bàn thờ, dường như đã quá đủ cho một hình dung về cái gọi là “chủ nghĩa nhân văn” trong đạo lý dân tộc - dường như cũng đủ là “ấm lòng" những ai đã mất, những ai còn sống sót qua bão dông. Thế nhưng với mẹ, thì sự đồng cảm đến từng nhịp thở, sự đau đớn đến từng nếp nhăn trên “đôi má hóp hom hem” ấy, vẫn chưa thể khiến mẹ nguôi ngoai:
Nhà dột nát thân gầy như que củi
Sợi tóc bạc phơ rũ xuống lưng còn
Va li rách còn dăm ba tiền lẻ
Bàn tay run gom lại từng đồng
Miếng khi đói…ôi tấm lòng của mẹ
Có gì hơn ngoài cuộc sống long đong?
“Ngoài cuộc sống long đong" ấy là một tấm lòng! Mẹ nghèo. Mẹ ít học nhưng mẹ thuộc nằm lòng lời dạy của cha ông “miếng khi đói bằng gói khi no”. Mẹ biến bài học ấy thành một triết lý sống của cả một đời, ở bàn tay run gom lại từng đồng…Nhà thơ tả chân thực chiếc va li rách, nhà thơ không giấu che tấm thân mẹ “gầy như que củi"… Mà sao, trước mắt mọi người lại hiện ra một hình tượng tuyệt đẹp - của tình người, của lòng nhân ái? Và gì nữa. tôi hình dung một chiếc lá. Chiếc lá ấy không lành lặn. Chiếc lá ấy sắp rời cành. Nhưng trong từng thớ lá vẫn rung lên nhịp đập mãnh liệt của một trái tim chỉ muốn bao trùm “vạn kiếp sinh linh” trên cuộc đời này. “Lá lành đùm lá rách”. Nhân dân ta nói thế. “Lá rách ít bọc lá rách nhiều”. Nhân dân cũng nói thế. Mẹ là chiếc lá rách nhiều, nhưng, chiếc lá ấy bọc trái tim vàng!
Tôi biết, tôi đã không thể diễn tả hết những điều tác giả tâm đắc, cũng như không phân tích tận cùng cái hay của bài thơ ẩn giấu đằng sau những câu chữ có vẻ bình dị ấy. Tôi chỉ nói được những gì mình rung động…vì quà thật, khi chọn giới thiệu bài thơ này, tôi đã có những lý do rất riêng tư. Bài thơ đối với tôi có một ý nghĩa đặc biệt, nhất là vào những ngày này, hàng đêm trên Ti vi, chương trình thời sự khắc khoải báo tin lũ lớn đang tràn về…Nó làm sống lại trong tôi cảm giác thắt thỏm, tưởng cháy cả ruột gan khi chính tôi…vâng chính tôi cũng đã từng, hàng đêm ngồi trước màn hình, hóng giờ thời sự để xem tin lũ ở miền Trung, ở Huế quê tôi những ngày tang tóc trong cơn lũ Thế kỷ cuối 1999 - Thời điểm anh Văn Quốc Thanh sáng tác bài thơ. Cám ơn Văn Quốc Thanh, cám ơn bài thơ…và cám ơn Mẹ đã chia sẻ bao nỗi niềm.
Tháng 9/2001
Dương Thanh Thanh (phó GĐ Thư viện KHTH Vĩnh Long)